ANH CHỊ EM SỐNG ĐỜI ĐỀN TẠ

ANH CHỊ EM PHAN SINH
Tác giả: Tu sĩ William J. Short, OFM
Chuyển ngữ: Tu sĩ Irênê Nguyễn Thanh Minh, OFM
Chương IV: ANH CHỊ EM SỐNG ĐỜI ĐỀN TỘI
GIÁO DÂN VÀ TU SĨ
TỔ CHỨC VÀ TĂNG TRƯỞNG
ĐỨC LEO X VÀ DÒNG BA
SAU CÔNG ĐỒNG TRENT
GIÁO DÂN VÀ TU SĨ TRONG THẾ KỶ 19
KHÚC NGOẶT CỦA THẾ KỶ
CHƯƠNG IV: ANH CHỊ EM SỐNG ĐỜI ĐỀN TẠ
Sau khi đã xem xét câu chuyện cải tổ và phân chia giữa CENK và AEHM, bây giờ chúng ta hướng đến câu chuyện ACESĐĐT hay Dòng Ba. Cũng như AE và CE Nghèo Khó đã chứng kiến sự đổi thay trong Dòng do các đòi hỏi của những thế hệ liên tiếp, dòng ACESĐĐT cũng nghiệm thấy sự phát triển của Dòng mình, dần dà chia ra làm hai nhóm chính; nhóm thứ nhất gồm các nam nữ giáo dân và nhóm thứ hai dành cho những người nam người nữ muốn sống một lối sống mới trong đời tu trì. Sự thay đổi này làm phát sinh những tên gọi mới, dòng Ba Tại Thế và dòng Ba Tại Viện.
GIÁO DÂN VÀ TU SĨ
Vào thế kỷ 13, có những người trong ACESĐĐT muốn đảm nhận một lối sống đền tội trong cộng đoàn, và tuyên khấn các lời khuyên phúc âm về nghèo khó, khiết tịnh, vâng phục. Nhiều người cũng muốn kết kợp đời sống cộng đoàn với sứ vụ, đặc biệt là giúp đỡ người phong cùi và các bệnh nhân nghèo. Họ không triển khai một luật dòng mới (Công đồng Lateran IV đã ngăn cấm luật mới) nhưng dấn thân tuân giữ “thể thức đời sống của ACESĐĐT”, và thêm vào đó là nét đặc biệt “sống cộng đoàn”. Dần dần họ khám phá ra một hình thức mới đời sống tu trì; đời sống này kết hợp các yếu tố truyền thống của đời sống cộng đoàn và kinh nguyện với lối sống phục vụ cho người túng thiếu.
Những người ủng hộ viễn cảnh mới này cảm thấy được khích lệ, khi Đức Nicholas IV duyệt xét bản luật ACESĐĐT năm 1289. Bản luật mới này gọi họ là “những ACE dòng Ba Phan Sinh”. Cho dù không đề cập đến lời khấn tu trì, bản luật này mô tả họ như là những thành viên của cộng đoàn tu trì hơn là tại thế. Việc tuân giữ các lời khấn nghèo khó, khiết tịnh và vâng lời nơi một số ACE dòng Ba ngày càng gia tăng, và mặc dầu bị chống đối lúc ban đầu, sáng kiến của họ vẫn được Đức John XXII chính thức chấp thuận năm 1323
Hành động của Đức John XXII công nhận đặc tính kép của dòng Ba: những người giáo dân nam và nữ sống tại gia đình mình, và những người sống thành cộng đoàn với lời khấn tu trì, cả hai vẫn giữ cùng một luật dòng.
Các cộng đoàn dòng Ba nữ đã hình thành trong thế kỷ 13 tại Pháp, Đức và Ý. Ở Bỉ và Hà Lan một số nhóm tương tự cũng đã hình thành, và phát triển như là nhóm Beguines nơi những xứ chấp nhận luật dòng Ba của Đức Nicholas IV, để tự bảo vệ mình khỏi những bách hại của Giáo quyền cũng như dân sự đối với những người lạc giáo. Những cộng đoàn này thì độc lập tự trị, không có nội vi, dấn thân làm công tác tông đồ, phục vụ người nghèo và bệnh nhân.
Thánh Elisabeth Hungari được coi như là gương mẫu của nhiều nhóm như thế. Năm 1228 Chị tuyên khấn tu trì: từ bỏ thế gian và ý riêng mình, phân phát của cải cho ngừời nghèo và xây dựng một bệnh viện. Chị em nhóm Elisabeth và Chị em bệnh viện hay Chị em Áo Xám trong thế kỷ 13 noi gương chị, sống và làm việc gần các bệnh viện tại Đức, Pháp và Bỉ.
Vào thế kỷ 14 một lối sống khác xuất hiện ở Ý; đó là lối sống chiêm niệm có nội vi, theo luật dòng Ba. Angelina da Marsciano (mất năm1435) thành lập một cộng đoàn như thế, đó là đan viện thánh Anna tại Foligno, gần Assisi. Những đan viện khác cùng một thể loại được thành lập và tổ chức như những thành phần của cùng một gia đình. Họ bầu chọn tổng phục vụ trong lần họp tổng tu nghị cứ ba năm một lần và thiết lập việc tổng kinh lược cho tất cả các đan viện.
Vào thế kỷ 14, những người đền tội giáo dân chịu nhiều đau khổ do bị nghi ngờ có liên quan đến lạc giáo. Nhiều người ( đặc biệt một số Giám mục Pháp) xem họ giống như là lạc giáo Beghards, Beguines và Fraticelli đã từng bị công đồng Vienne lên án vào năm 1312.
Cuộc bách hại và cơn đại dịch gây tổn thất sinh mạng nặng nề. Đại ly giáo Tây phương khuấy động tình trạng lộn xộn trong mọi lãnh vực đời sống Giáo hội. Tất cả những yếu tố này kết hợp với nhau làm giảm sút đáng kể con số ACESĐĐT.
Vào cuói thế kỷ 14, năm 1385, một thống kê cho thấy rằng AEHM phục vụ 244 HĐĐ của dòng ACESĐĐT; trong đó 141 HĐĐ ở nước Ý và Đông Phương, 23 HĐĐ ở Tây Ban Nha, 29 HĐĐ ở Pháp, 39 HĐĐ ở các miền nước Đức và 8 HĐĐ ở các đảo nước Anh.
TỔ CHỨC VÀ TĂNG TRƯỞNG
Các cộng đoàn Dòng Ba chiêm niệm có nội vi vẫn tồn tại; và trong suốt thế kỷ 15, nhiều cộng đoàn theo lối sống này với lời khấn trọng thể và giữ nội vi nghiêm ngặt. Tất cả trở thành các cộng đoàn của CENK.
Các cộng đoàn dòng Ba có lời khấn tu trì nhưng hoạt động trong lãnh vực tông đồ, không có nội vi, họ làm thành những “hiệp hội”, “liên đoàn”, nhưng vẫn duy trì sự tự trị của mỗi cộng đoàn. Vào thế kỷ 15 liên dòng Zepperen ở Bỉ nối kết các nhóm lại theo mô hình đó. Tu nghị Utrecht ở Hà Lan, năm 1439, liên kết 70 nhóm tu sĩ Phan Sinh nam nữ, và bầu ra Tổng phục vụ riêng.
Hình thức mới về liên hiệp các cộng đoàn chẳng bao lâu bắt đầu lan rộng ở nhiều nước khác. Khoảng 20 năm sau khi phê chuẩn quy chế liên hiệp Flemish, liên hiệp Tây Ban Nha gồm các cộng đoàn nam nhận được phép của giáo triều có thể tuyên khấn trọng thể. Với sắc chỉ năm 1447, Đức Nicholas V cố gắng nối kết vô số cộng đoàn nam ở Ý thành một liên hiệp có tổng tu nghị và tổng phục vụ riêng. Ngài gặp thất bại do sự chống đối của rất nhiều cộng đoàn sợ rằng mình sẽ mất đi tính tự trị. Các lời cam kết không giống nhau mà nhiều cộng đoàn đã thề hứa trong thời đại ly giáo, tạo nên một hoàn cảnh bất lợi cho dự phóng hiệp nhất lại.
Sự công nhận chính thức tính cách vĩnh viễn của lời khấn dòng cho các cộng đoàn Dòng Ba, chỉ có được vào cuối thế kỷ này. Năm 1480, Đức Sixtus IV quyết định rằng lời khấn của các thành viên nam nữ của dòng Phan Sinh tại viện phải được coi như là những lời khấn trọng thể; và như thế, nhìn nhận họ là những tu sĩ “đích thực” trong Giáo hội.
Thế kỷ 15 chứng kiến sự hồi sinh của phong trào đền tội giáo dân, đặc biệt dưới thời các vị lãnh đạo của phong trào Tuân thủ, Bernadine Siena, John Capistran, Bernard de Bustis. Thần học gia dòng Đaminh, thánh Antonine of Florence (mất năm 1459) miêu tả rằng Dòng Ba Đaminh vào thời đó thì tương đối ít ở nước Ý và đa số là phụ nữ, trong khi những người “theo màu áo và luật dòng của Dòng Ba thánh Phanxicô” thì rất nhiều, cả nam lẫn nữ, và có “một số sống như ẩn sĩ’; một số khác như là y tá săn sóc bệnh nhân và một số khác làm thành những hiệp hội”.
Trong thế kỷ sau, mặc dầu có nhiều tổn thất do phong trào Cải cách nơi một số quốc gia, Anh em sống đời đền tội vẫn phát triển nơi nhiều quốc gia khác. Trong các địa hạt thuộc Tây Ban Nha (gồm cả Naples, Lombardy, Flanders), ở Bồ Đào Nha và trong các lãnh thổ ở Châu Mỹ và Châu Á, Dòng Ba hầu như bùng phát: lối sống này được xem là “chic” đối với tầng lớp thượng lưu, và là mục tiêu nhắm đến của rất nhiều tín hữu. Vào năm 1586, người ta ước tính có hơn 100.000 hội viên Dòng Ba ở ngoài nước Ý.
Vào thời điểm đó, Julius II thay đổi tu phục cổ truyền từ chiếc áo dòng thô sơ và dây thắc lưng của anh chị em dòng Ba được coi như là quá khắc khổ đối với các thành viên thuộc giai cấp thượng lưu, và lượm thuộm đối với giới bình dân lao động, đến một cái ‘áo nhỏ’ gồm hai mảnh vải dài phủ trước ngực và sau lưng, được buộc lại từ hai phía bằng một sợi dây. Áo này có thể được mặc ở dưới y phục thường ngày. (Năm 1704, Đức Clement XI giản lược bộ áo này thành hai mảnh vải và cột bằng một sợi dây).
ĐỨC LEO X VÀ DÒNG BA
Năm 1521, Đức Leo X công bố một bản luật cho tất cả các cộng đoàn nam nữ, buộc họ liên kết với nhau thành Dòng Ba. Thích nghi luật dòng cũ của Đức Nicholas IV năm 1289 cho hợp với đòi hỏi của cuộc sống chung, và thêm một số điều khoản mới. Luật của Đức Leo thêm việc tuyên khấn trọng thể ba lời khuyên Phúc Âm. Quy định nghiêm nhặc về nội vi trong những cộng đoàn nữ, cho dù được ấn định trong luật dòng, các tu sĩ vẫn được hưởng một số dễ dãi trong thực hành, vì họ phải đảm trách những công việc từ thiện bác ái. Vào giữa thập niêm 1500, chị em Elizabethine hoặc Sister of Mercy chẳng hạn, được miễn giữ nội vi vì họ phải đảm trách những công việc ở bệnh viện; con số chị em lên đến gần 4.000 người, đặc biệt rất đông ở Pháp, Đức và Áo. Với tinh thần Phan Sinh vững vàng và tuân thủ luật Dòng Ba của thánh Phanxicô, Angela Merici (mất 1540) thành lập ‘Tu Đoàn thánh Ursula’(the Company of Saint Ursula); và chỉ sau khi chị mất, tu đoàn này mới trở thành một hội dòng (religious order).
Trong số những người nam sống đời Đền Tội, có những tu hội dấn thân cho việc từ thiện, chẳng hạn nhóm’ Minims’ hay ‘Least Brethren’ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Họ dấn thân cho công việc phục vụ bệnh nhân bần cùng. Tu hội ‘Obregones’, được thành lập năm 1566, theo tên gọi của đấng sáng lập Bernardino Obregon, một giáo dân. Một cộng đoàn có hình thức công tác tông đồ tương tự là nhóm “Bons-Fils” (người con nhân lành) thuộc Dòng Ba ở Pháp. Ở Paris nhóm “Gray Penitents” (Hối nhân áo xám) tham gia vào việc giáo dục các người trẻ thuộc các gia đình nghèo để các em trở thành linh mục sau này.
Luật của Đức Leo X không cho phép có bề trên Cả: những chức vụ này thuộc về Giám tỉnh của dòng Nhất và các vị kinh lý đã được chỉ định. Ở đây các bề trên nhánh Tuân thủ tỏ rõ ước muốn của mình là không có một dòng Phan Sinh nào khác với quyền cai trị tập trung riêng giống như dòng Nhất.
Tuy nhiên các hội dòng ở Tây Ban Nha và Lombady đã có được một lối sống tự trị với quyền hạn riêng . Năm 1547, hội dòng ở Tây Ban Nha đón nhận ba bản luật dòng từ Đức Paul III: Một bản luật cho anh em sống thành cộng đoàn, một bản luật cho chị em sống đời ẩn tu, và một bản luật cho các giáo dân sống tại nhà của mình hoặc sống đời cô tịch như ẩn sĩ. Những ai tuyên khấn một trong ba buật này đều thuộc quyền Tổng phục vụ của dòng Nhất. Hệ thống này được áp dụng cho những lãnh địa thuộc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha kể cả Đông và Tây Indies (Châu Á và Châu Mỹ).
Ở Ý, một số đông cộng đoàn gia nhập ‘Hội Dòng Lombardy’ (Congregation of Lombardy) đầy uy quyền. Hội dòng này nhận được quyền lãnh đạo tự trị năm 1549, với các vị bề trên giám tỉnh và bề trên Cả. Khoảng 20 năm sau, năm 1568, Đức Pio V ra lệnh rằng tất cả các cộng đoàn phải ở dứơi quyền của các vị bề trên nhánh Tuân thủ, và mọi cộng đoàn nữ đều phải tuyên khấn trọng thể và tuân giữ luật nội vi nghiêm nhặt. Hai thập kỷ nữa trôi qua trước khi Đức Sixtus V cho phép các cộng đoàn dòng Ba có quyền tự trị tương đối. Họ có quyền bầu chọn tổng kinh lược ba năm một lần tại kỳ tổng tu nghị của riêng họ. Vị tổng kinh lý sẽ điều hành tu hội như một bề trên đích thực, nhưng vị Tổng phục vụ nhánh Tuân thủ vẫn giữ quyền xác nhận cuộc bầu cử vị tổng kinh lý, và viếng thăm tất cả các cộng đoàn Dòng Ba năm năm một lần (việc thực hành này mau chóng bị hủy bỏ).
SAU CÔNG ĐỒNG TRENT
Theo công đồng Trent, Đức Piô V, năm 1566, nghiêm cấm các cộng đoàn nữ mà không có lời khấn trọng thể và nội vi giáo hoàng nghiêm nhặt. Vào năm 1568, Ngài ra nghị định hoàn toàn ngăn cấm hoạt động đối với những nhóm như thế đã hiện hữu, và cấm thành lập bất cứ cộng đoàn nào khác trong tương lai. Những biện pháp nghiêm khắc này ảnh hưởng mạnh mẽ đến lịch sử các cộng đoàn dòng Ba Phan Sinh trong suốt thời gian 200 năm sau.
Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 17 “khuôn mặt mới” của các dòng nữ Phan Sinh phải là những cộng đoàn có nội vi với đời sống hoàn toàn chiêm niệm, tuân giữ luật của Dòng Ba, luật nguyên thủy cho các anh chị em sống đời đền tội tại thế.
Các dự án nhằm đem lại một sự thống nhất và tập trung quyền hành lớn hơn cho các cộng đoàn dòng Ba nữ tỏ ra rất khó khăn. Một số cộng đoàn thì ở dưới quyền của Giám mục địa phương, một số khác tuân giữ luật của Đức Nicholas IV và nhiều nhóm khác lại tuân giữ luật của Đức Leo X. Nhiều cộng đoàn khác lại ở dưới quyền của các bề trên Tuân thủ, và sống theo tổng hiến chương riêng của mình. Một nhóm thứ ba, cũng rất đông thì dưới quyền của các bề trên thuộc dòng Ba nam.
Để cho thấy sự khác biệt giữa các cộng đoàn dòng Ba nữ chúng ta có thể lấy ví dụ ở nước Bỉ. Năm 1647, ở đây có 46 cộng đoàn dòng Ba. Trong đó 12 là những tu viện giữ luật nội vi nghiêm nhặt, và phục quyền anh em Tuân thủ; 34 tu viện thì dấn thân tích cực trong các dịch vụ bác ái, đặc biệt là trong các bệnh viện. Mặc dù sắc lệnh của công đồng Trent áp đặt luật nội vi trên tất cả các nữ tu cùng với lời khẳng định của nhiều chính quyền cấp địa phương, chị em dòng Ba nước Bỉ này vẫn được miễn chuẩn khỏi giữ luật nội vi.
Các dòng mới được thành lập vào thế kỷ 16 và 17, tuân giữ luật lệ của công đồng Trent; họ thuộc về một phong trào gọi là nhóm ‘Tuân thủ nghiêm nhặt hơn’, với lời khấn trọng thể và nội vi nhặt nhiệm. Một ví dụ về trường hợp này, có một cộng đoàn Cải Tổ Pfanneregg tại Thụy Sĩ năm 1587 dưới quyền lãnh đạo của Elizabeth Spiltzlin (mất 1611). Lấy cảm hứng từ tu sĩ Ludwig thành Einsiedeln, một anh em Capuchin, năm 1591, nhóm chấp nhận tu phục và tinh thần của anh em Cải tổ Capuchin; và nhiều cộng đoàn khác ở Thụy Sĩ và Đức liên kết với phong trào này; vì vậy vào cuối thập niên 1600 có hơn 20 tu viện trực thuộc Hội dòng này.
Ở Pháp, lối sống của anh em Capuchin cũng gợi hứng cho phong trào Cải tổ Saint Omer. Khởi đầu từ Bourbourg năm 1614 và từ Saint Omer năm 1620, chị Francoise Taffin (mất 1642) thành lập một hội dòng mà sau này bao gồm cả 15 tu viện ở Pháp, Bỉ và Đức. Ở Ý, một phong trào cải tổ nhỏ hơn, tương tự như thế, đã khởi sự từ Genoa năm 1690 do Benedetta Wanherten Viganega (mất 1724).
Thật lạ lùng các tu hội theo lối sống mới này cũng gợi hứng cho sự phát triển nhanh chóng các cộng đoàn Phan Sinh ở thế kỷ 19 và 20. 2 tu hội thành lập vào thế kỷ 17 đáng được chúng ta quan tâm đặc biệt, một từ Bỉ, và một từ Đức.
Nhóm Recollectines được thành lập năm 1623 do Jeanne Neerinchx, theo đường hướng cải tổ Tỉnh Niệm (Recollect reform). Dù là một cộng đoàn chiêm niệm có nội vi, “các nữ tu Cải tổ Limburg” thiết lập một trường nội trú trong tu viện cho các nữ sinh, và dành phần có nội vi để nuôi dưỡng các bệnh nhân, khi họ cần đến. (Những ‘chức năng xã hội’ này của nhóm Collectines giúp cho họ tránh khỏi cuộc bắt bớ mạnh mẽ của các cộng đoàn có nội vi vào thế kỷ 18). Nhóm Đền Tội Collectines phát triển mạnh mẽ, và đạt được 16 tu viện trước khi vị sáng lập dòng qua đời năm 1648.
Năm 1622 tại Aachen, Đức, Apollonia Radermacher thành lập nhóm Elizabethinnes theo lối sống chiêm niệm và có nội vi.
Dù các cộng đoàn Neerinchx và Radermacher tự phân chia và chia nhỏ ra nữa, họ vẫn cung cấp nhiều vị sáng lập dòng vào thế kỷ 19 ở Bỉ, Hà Lan, Đức và miền Bắc nước Pháp: những cộng đoàn Phan Sinh này sẽ gây ảnh hưởng sâu rộng ở Bắc Mỹ và Brazil trong tương lai.
Vào thập niên 1600, một phong trào cải tổ bên trong dòng Anh chị em sống đời đền tội nhận được một sự khích lệ mạnh mẽ từ nhiều nhánh khác nhau trong dòng Nhất. Tổng tu nghị Toledo năm 1633 cổ võ việc tái lập dòng Ba theo mẫu gương của Tây Ban Nha. Các tuyên úy triều đình Âu Châu thuyết phục nhiều thành viên gia nhập và cổ võ sự phát triển của dòng Ba, đặc biệt tại triều đình Austria, tại Savoy và Gonzagas.
Trong thế kỷ này, nước Ý có thể tự hào, vì mỗi thành đều có HĐĐ, và nhiều thành viên khắp nơi gia nhập vào dòng Ba. Dòng Ba Ý được thành lập và duy trì các hoạt động bác ái, như giúp bệnh viện, trại mồ côi và bếp ăn cho người nghèo. Dưới ảnh hưởng của Philip III và Philip IV ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha “một sự hăng say không ngờ” đối với dòng Ba đã đem lại kết quả như sau: Tại Lisbon năm 1644 có hơn 11,000 người dòng Ba thuộc về các HĐĐ trong thành phố; và tại Mardrid năm 1689, con số của người Dòng Ba ước chừng vượt con số 25,000 người.
Tại Pháp, Dòng Ba đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt qua các hội dòng như là ‘the Most Blessed Sacrament’ (dòng Thánh Thể Chí Ái). AE Capuchin cổ võ Dòng ba rất mạnh tại Pháp; có những khuôn mặt nổi bật như Joseph du Tremblay, Leonard de Paris và Yves de Paris. Dòng Ba tại Bỉ có vẻ như chưa trở thành một phong trào bình dân, và hầu như chỉ có trong lãnh vực quý tộc. Dầu vậy lòng hăng say đối với Dòng Ba được hiện thực bên Đức, Irland và Anh Quốc.
Ở Tân thế giới, chúng ta ghi nhận sự đóng góp quan trọng của nhóm Beatas, là nhóm phụ nữ Dòng Ba ở Madrid dấn thân cho việc giáo dục. Họ được tu sĩ Juan de Zumarraga mời gọi đi sang Mexico City để mở trường dạy học cho trẻ em bản xứ.
Vào thế kỷ 17, tu hội nam nước Pháp phát triển mạnh mẽ hơn là các tu hội ở Tây Ban Nha; bao gồm 7 Tỉnh dòng, và sau một thời gian cải tổ mạnh mẽ dưới thời Vicent Mussar lãnh đạo, họ được gọi là nhóm ‘Tuân thủ Nhiệm nhặt’(The strict Observance). Hội dòng này vẫn giữ liên lạc khắn khít với dòng Nhất và bảo tồn các quy chế của riêng mình theo luật của Đức Leo X. Sử gia vĩ đại các dòng đan tu, Hippolyte Helyot (mất 1716) là thành viên của hội dòng này. Vào đầu thế kỷ 17, dầu có những tổn thất lớn trong thời gian cuộc Cải Cách, dòng Ba Tại viện ở Đức lên đến hơn 200 tu viện. Năm 1625, hội dòng gồm có 17 tỉnh dòng, 327 tu viện với 3,990 thành viên khấn trọn đời. Đầu thập niên 1600, 30 nhà được thành lập ở Ireland.
Năm 1700 nước Pháp có 4 tỉnh dòng; Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có 3 tỉnh dòng, tất cả đều lệ thuộc vào tổng phục vụ của AEHM với tổng số là 100 tu viện với 1,700 tu sĩ. Toàn bộ dòng Ba tại viện vào thời điểm này lên đến 20 tỉnh dòng với hơn 200 tu viện và gần 4,000 thành viên.
Đầu thập niên 1700, Dòng Ba phát triển mạnh mẽ, thì vào nữa sau thế kỷ, lại bắt đầu một giai đoạn thử thách lớn cho Anh chị em sống đời đền tội. Năm 1776, nữ hoàng Maria Theresa nước Áo cấm tiếp nhận những thành viên mới vào Dòng Ba. Năm 1782, Joseph II loại bỏ Dòng Ba dưới mọi hình thức.
Năm 1790, “Pháp chế dân sự về giáo sĩ” của Pháp ngăn cấm Dòng Ba hoạt động tại đất nước này, và ra lệnh tịch thu tài sản của tất cả các HĐĐ. Dưới thời Napoleon, năm 1810, Dòng Ba bị chế tài và bất cứ hình thức hội họp nào của các hội viên cũng đều bị nghiêm cấm ngặt nghèo.
Trong khi các dòng tu ở Tây Ban Nha bị ngăn cấm hoạt động, các HĐĐ Dòng Ba vẫn tồn tại. Một số phát triển mạnh trong thời gian này, và đa số vẫn sống sót. Việc ngăn cấm tu sĩ hoạt động tại Ý không đồng nghĩa với việc các HĐĐ biến mất: Họ chỉ thay đổi tính cách pháp lý để trở thành những tổ chức tư nhân.
GIÁO DÂN VÀ TU SĨ TRONG THẾ KỶ 19
Vào ngày 12/12/1818, thi hài của Phanxicô được tìm thấy trong hầm mộ của Vương cung thánh đường Assisi. Sau 52 đêm ngày bí mật đào xới, do AE Viện tu thực hiện, với phép của Đức Pio VII, thi hài thánh nhân đã được tìm thấy lần đầu tiên kể từ khi được chôn giấu ở đây vào năm 1228. Một cách nào đó, biến cố này đánh dấu việc tái khám phá thánh Phanxicô trong thế kỷ 19. Đây là giai đoạn AE Phan Sinh tuột dốc tới mức chưa từng thấy, và cũng là khởi đầu cho giai đoạn tái sinh.
Phong trào lãng mạn ảnh hưởng lên bối cảnh văn hóa trong suốt thế kỷ này, Trường phái lãng mạn tìm thấy nơi Phanxicô một thi sĩ ca ngợi tạo vật, một dấu chỉ của tình huynh đệ phổ quát, một người hát rong của Thiên Chúa và là một chứng nhân cho giá trị lao động. Trong khi trường phái lãng mạn khinh dễ các thành viên tu sĩ, một luật trừ được dành cho anh em Phan Sinh.
Năm 1826, Joseph Goerres xuất bản cuốn ‘Der Franziskus von Assisi: Ein Troubador’ tại Stasbourg. Đây là một tác phẩm quan trọng vì nó đánh dấu việc tái khám phá Phanxicô như là một thi sĩ. Trong cùng năm đó, 1826, Stendha, bậc thầy nổi tiếng về tiểu thuyết của Pháp, bày tỏ lòng ngưỡng mộ và kính trọng đối với Phanxicô trong tập san của mình.
Ngày 16/10/1833, Chateaubriand viết cuốn ‘The Social Impact of Franciscanism’ (ảnh hưởng xã hội của phong trào Phan Sinh). Michelet, trong cuốn ‘Histoire de France’ (lịch sử nước Pháp), đề nghị xem hình ảnh của Phanxi cô như là sự tương phản của giáo hội chính thức, mở đường cho những nghiên cứu Tin Lành về Phanxicô như là một người chống đối và nhà cải cách.
Trong tác phẩm của Montalembert (1618) nhan đề ‘St. Elizabeth of Hungary’, ông đề cao sự nghiệp tôn giáo và dân sự của anh em Phan Sinh trong thế kỷ 13.
Manzoni, văn sĩ trứ danh người Ý, vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, viết một tác phẩm văn chương ghi đậm dấu ấn linh đạo Phan Sinh, đó là “I promessi sposi”. Khuôn mặt của Padre Cristoforo, vị tu sĩ, tạo nên mối liên hệ này với truyền thống Phan Sinh, như tiểu thuyết gia Manzoni chủ trương.
Năm 1847, Frederik Ozanam, giáo sư tại Sorbome, đến Assisi. Ngay lập tức ông say mê Phanxicô và chuyển ngữ các ‘kinh Chúc tụng Phan Sinh’ (Franciscan Laudes) và tác phẩm những cánh hoa đơn (Fioretti) vào trong tác phẩm của ông, lấy nhan đề là “Franciscan Poets in Italy” (những thi sĩ Phan Sinh ở Ý). Liên kết với AEHM, ông thành lập tu hội thánh Vincent de Paul, để cổ võ sự cộng tác tích cực của người giáo dân trong việc phục vụ những người nghèo khó.
Năm sau cái chết của Ozanam, A.von Hase viết cuốn ‘The Story of Francis’, trong đó ông trình bày quan điểm của mình về Phanxicô như một người tiên phong của Tin Lành (pre-Protestant). Ernest Renan duyệt lại tác phẩm đó; và những nghiên cứu của ông dẫn đến công trình của Paul Sabatier vào thập niên 1880. Điều này đánh dấu sự khởi đầu mới trong nghiên cứu phê bình lịch sử về các nguồn Phan Sinh.
Chính Paul Sabatier, với tác phẩm ‘Vie de S.Francois’, đã thành lập, theo ngôn từ của Masseron: “ Dòng thứ tư” của những “ái nhân Phan Sinh” (Franciscanophiles), bao gồm tầng lớp trí thức và tại thế; nhóm này sẽ tăng lên gấp bội trong thế kỷ 20.
Từ giữa thập niên 1800, nhiều yếu tố khác liên kết với nhau mang đến một sự thành công rực rỡ và mới mẻ cho người Dòng Ba giáo dân: sự phục hồi Dòng Nhất ở nhiều nhánh khác nhau (với một sự hiểu biết về sứ mạng tông đồ một cách hiệu quả cũng như mang chiều kích xã hội hơn nữa; và một ý thức rõ nét về phương pháp hành động Phan Sinh); một làn sóng đông đảo có thiện cảm với thánh Phanxicô, bắt đầu từ tầng lớp trí thức ở Âu Châu; và một sự ủng hộ rất quyết liệt từ phía nhiều Đức Giáo hoàng.
Các Đức Giáo hoàng từ Đức Piô IX đến Đức Gioan XXIII đều là người Dòng Ba. Đức Leo XIII vừa là giám mục Perugia vừa là giám mục thành Rome, đặc biệt ửng hộ lối sống Dòng Ba. Trong dịp mừng 700 năm ngày sinh của thánh Phanxicô, năm 1882, Ngài ca ngợi và quảng bá mạnh mẽ Dòng Ba trong tông thư Auspicato concessum. Năm 1884, Ngài ban hành bản Luật đã được duyệt lại nhằm mục đích làm cho đa số tín hữu biết đến Dòng Ba hơn nữa.
Thế kỷ 19 đánh dấu sự khởi đầu bách hại tôn giáo theo sau Cách mạng Pháp năm 1790, và các vụ đàn áp dưới thời hoàng đế Napolêon vào các năm 1803 và 1810. Việc cấm các dòng tu hoạt động bắt đầu có ảnh hưởng ở Tây Ban Nha năm 1820, tái diễn năm 1831 và 1832 ở Tây Ban Nha, Nga, Ba Lan và Mexico. Năm 1866 các dòng tu bị cấm hoạt động tại Ý và bị tịch thu tài sản. Vài năm sau, phong trào Kulturkampf do Bismarck chỉ đạo ở Đức, cũng làm như thế, giống như chế độ Cộng hòa ở Pháp. Giữa những năm 1869 và 1880 nhiều chính thể quốc gia cũng muốn hủy diệt các hội dòng.
Áp dụng nguyên tắc: các tu sĩ muốn được khoan dung, phải đảm trách một chức năng xã hội mang lại ích lợi nào đó, các chính quyền quốc gia làm nảy sinh một năng lực mới để cho các hội dòng tìm ra những lối sống mới. Những hội dòng mới xuất hiện, trong đó nhiều hội dòng là Phan Sinh, không có nội vi và chỉ tuyên khấn lời khấn đơn, hoặc làm thành một hiệp hội mà không có lời khấn. Những hội dòng này dấn thân cho công việc giáo dục, phục vụ bệnh nhân, làm việc truyền giáo và các chương trình trợ giúp xã hội.
Thế kỷ 19, là thế kỷ có hiều ơn gọi nhất, chứng kiến sự phát triển phong phú của nhiều cộng đoàn Phan Sinh nữ. Những tu đoàn này đáp ứng những nhu cầu xã hội cấp bách để phục vụ “những người nghèo mới”, giai cấp lao động của cuộc cách mạng công nghiệp.
Những hội dòng nữ có lời khấn đơn, khấn tạm hoặc khấn vĩnh viễn, không được xem như là “tu sĩ” theo nghĩa hẹp của giáo luật. Vì vậy họ được tự do đảm nhận một dịch vụ tích cực, mặc dầu có những quy định của công đồng Trent buộc các nữ tu phải có nội vi (vào đầu thập niên 1900, tòa Thánh ban cho họ “quyền công dân đầy đủ” như tu sĩ, với điều kiện họ phải “liên kết” với một dòng tu có lời khấn trọng thể. Hầu hết các cộng đoàn nữ và một số cộng đoàn nam Phan Sinh đã lựa chọn chấp nhận đề nghị này).
Giai đoạn từ giữa thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, xuất hiện sự lớn lên của hơn 20 cộng đoàn Phan Sinh nữ tại Hoa Kỳ, mà gốc là từ Châu Âu đến. Sự lớn mạnh của các cộng đoàn tu sĩ ở Mỹ Châu trong những năm này đi đôi với việc di dân rộng rãi của người công giáo, đặc biệt là người Ai Len, vào những thập niên 1840 và 1850; người Đức di dân cũng trong thời gian này; tiếp đến là những di dân miền Đông và Nam Châu Âu; đa số trong đó là công giáo, đặc biệt đến từ Ý và Ba Lan, vào những thập niên 1880 và 1890.
Nơi rất nhiều các tổ chức mới này, người ta thấy rõ nhu cầu xã hội của người di dân, cũng như cảm nhận được sự trốn tránh các khó khăn gây ra do tinh thần bài trừ công giáo tại quê nhà họ. Nhu cầu về giáo dục, về các trường công giáo, do công đồng chung Baltimore thứ ba (1884) mong muốn, đặt ra một lịch trình sống cho các giáo hội địa phương. Vì lý do này nhiều giám mục và linh mục triều cổ võ việc thành lập những cộng đoàn tu trì mới, dấn thân cho mục đích này. Nhiều nhu cầu lớn lao chăm sóc sức khỏe cho người Công giáo cũng như đa số dân chúng, buộc các tu hội mới này, tìm cách phục vụ người nghèo đặc biệt trong ngành y tế và điều dưỡng.
Năm 1849, một nhóm dòng Ba Phan Sinh Tại Thế, gồm cả nam lẫn nữ, di cư từ Bavaria, quyết định chuyển đến giáo phận Milwaukee vừa mới thành lập. Những phụ nữ này thành lập dòng ‘Franciscan Sisters of Penance and Charity’ dưới quyền lãnh đạo của Ottilia Duerr Zahler (M. Emiliana). Cũng trong năm này, 1849, tại Glasgow, Scoland, Adelaide Vaast và Veronica Cordier thành lập dòng ‘Franciscan Sisters of the Immaculate Conception’. Năm tiếp theo, 1850, dòng ‘Franciscan Sisters of the Immaculate Conception’ ở Braintree, nước Anh, được thành lập do M. Elizabeth Lockhart và M. Frances Burton. Hai cộng đoàn này sẽ gợi hứng cho các cộng đoàn mới ở Hoa Kỳ được hình thành và phát triển.
Một nữ tu trẻ dòng Ba Phan Sinh đến từ Vienna, Theresa Hackelmeier, thành lập dòng ‘Franciscan Sisters of Oldenburg’ , Indiana, năm 1851. Năm 1855, được ĐGM St.John Neuman khuyến khích, ba người dòng Ba Phan Sinh Tại thế, Frances Bachman, Marguerit Boll và Barnadine Dorn thành lập dòng ‘Franciscan Sisters of Philadenphia’ (Glen Riddle).
Ở miền viễn Tây, tu sĩ Phan Sinh Panfilo da Magliano mời gọi một nhóm phụ nữ cùng thành lập hội dòng Phan Sinh ở miền Tây New York. Năm1859, hai phụ nữ đến từ Philadelphia, Mary Joan Todd và Ellen O’Fallon, rồi sau đó thêm Mary Ann O’Neill từ Fort Lee, thành lập dòng ‘Franciscan Sister of Allegany’. Một thành viên của cộng đoàn trẻ Philadelphia, Sr. M. Michaela đã giúp họ trong giai đoạn huấn luyện khởi đầu.
Alfreda Moes, được sự khuyến khích của Panfilo da Magliano, năm 1865, thành lập dòng ‘Franciscan Sisters of the Immaculate’ tại Joliet ở Illinois. Sau đó cộng đoàn Joliet thành lập dòng ‘Franciscan Sisters of Our Lady of Perpetual Help of St. Louis’ ở Missouri, năm 1901. Moes, năm 1878, di dời đến Rochester, Minnesota và thành lập dòng ‘Franciscan Sisters of the Congregation of Our Lady of Lourdes’. Năm 1916, cộng đoàn này cung cấp những thành viên đầu tiên cho dòng ‘Franciscan Sisters of the Congregation of Our Lady of Lourdes’ ở Sylvania, Ohio. Trong thập niên 1860, dòng Philadelphia Franciscans thành lập hai cộng đoàn mới ở New York: dòng ‘Franciscan Sisters of Syracuse’ dưới sự dẫn dắt của Bernardine Dorn và dòng ‘Franciscan Sisters of Williamsville’, dưới quyền của Marguerit Boll.
Nhờ sự trợ giúp của cộng đoàn Oldemburg, năm 1868, năm chị em tiên khởi của dòng ‘Franciscan Sisters of the Immaculate Congregation of the Blessed Virgin Mary’ (of Clinton, Iowa), bắt đầu thành lập một cộng đoàn mới gần Trappist Abbey of Gethsemani, Kentucky. Năm 1869, dòng ‘Franciscan Sisters of Penance and Charity’ (Tiffin) được thành lập.
Năm 1871, dòng ‘Franciscan Sisters of Perpetual Adoration’ được thành lập với một nhóm đến từ cộng đoàn Milwaukee của năm 1849.
Năm 1872, dòng ‘Franciscan Sisters of St. Mary’ bắt đầu thành lập ở St. Louis, Missouri.
Gần một nữa thế kỷ sau, năm 1827, ở Heythuizen, Hà Lan, một phụ trẻ tên là Katrien Daemen thành lập dòng ‘Franciscan Sisters of Penance and Christian Charity’. Vì hoàn cảnh tôn giáo loạn lạc đặc trưng ở Đức, một nhóm chị em chuyển sang Hoa Kỳ năm 1874. Cùng năm ấy một hội dòng trẻ Đức, dòng ‘Franciscan Sisters of the Holy Family’ chỉ mới 10 năm, trốn khỏi Kulturkanpf, di cư sang Hoa Kỳ, tạm thời đặt trụ sở ở Dubuque, Iowa. Cộng đoàn này, năm 1877, nảy sinh một cộng đoàn mới, dòng ‘Franciscan Sisters of East Peoria’, Illinois, nhờ sự khuyến khích của ĐGM tiên phong John Lancaster Spalding.
Năm 1874, một biến cố mới nối kết anh em Phan Sinh Châu Âu và Châu Mỹ. Một người Phan Sinh nước Anh, Elizabeth ( Ignatia) Hayes, được huấn luyện trong hai cộng đoàn Phan Sinh của dòng ‘Immaculate Conception’ ở Braintree, Anh, và Glasgow, Scotland. Thề hứa trở thành một vị thừa sai, Hayes đến Hoa Kỳ và thành lập dòng ‘Missionary Franciscan Sisters of the Immaculate Conception’ ở Belle Prairie, Minnesota năm 1872.
Cộng đoàn này làm phát sinh một loạt các hội dòng mới như đã từng xẩy ra với cộng đoàn Philadelphia đối với cộng đoàn Allegany và Joliet. Dòng ‘Franciscan Sisters of Little Falls’ ở Minnesota, bắt đầu năm 1890; năm 1901, dòng ‘Franciscan Sisters of Immaculate Conception’ ở Rock Island, Ilinois, được thành lập.
Cũng vào năm này, một phụ nữ người Anh, tên là Hayes, thành lập ‘Belle Prairie’ (1872) ; một phụ nữ người Đức, Anna Katherine Berger, thành lập dòng ‘Franciscan Sisters of St. Mary’ ở St. Louis, Missouri. Năm 1894, một thành viên của cộng đoàn St. Louis, Maria Augustine Giesen thành lập một hội dòng mới, dòng ‘Franciscan Sisters of Maryville’.
Ở Châu Âu các hội dòng nữ mới nhấn mạnh đến công việc Phúc Âm hóa thừa sai. Năm 1877, Elena Chappotin de Neuville (Marie de la Passion), từ Brittany đến lập dòng ‘Franciscan Mission of Mary’. Ngày nay họ là hội dòng lớn nhất trong số các nhóm nữ Phan Sinh.
KHÚC NGOẶT CỦA THẾ KỶ
Một phong trào tu trì trong Giáo hội Anh giáo vào cuối thế kỷ 19 làm phát sinh hai cộng đoàn Phan Sinh nam và nữ. Cộng đoàn thứ nhất “the Society of the Atonement” (tu đoàn Đền Tội), được linh mục Paul Wattson và Mẹ Lurana Mary White thành lập tại Graymoor, New York, năm 1898. Năm 1909, cùng với 15 đồ đệ, họ được Giáo hội Công giáo Rôma tiếp nhận. Vào thời điểm đó, Sứ thần Tòa thánh ở Hoa Kỳ là Diomede Falconio, một tu sĩ Phan Sinh, nâng đỡ họ. Chẳng bao lâu sau khi tiếp nhận họ, họ liên kết với gia đình Phan Sinh. Chính sự dấn thân phục vụ người nghèo và hoạt động cho phong trào đại kết của tu đoàn đã làm cho họ được nổi tiếng ở Hoa Kỳ.
Một cộng đoàn khác là “the Society of Saint Francis” (Tu đoàn thánh Phanxicô) mà đôi khi được biết đến như là Anh Em Phan Sinh Anh giáo. Được phân chia thành dòng Nhất, dòng Nhì và dòng Ba, các thành viên của tu đoàn này trở thành một dấu chỉ nổi bật cho các giá trị Phan Sinh trong cộng đoàn Anh giáo, đặc biệt ở Anh và Mỹ. Họ đóng góp nhiều sáng kiến trong việc trợ giúp người nghèo, việc bảo vệ tạo thành, và việc kiến tạo hòa bình.
Nhìn toàn cảnh về các hội dòng Phan Sinh được thành lập trong thế kỷ qua, Hoa Kỳ là nơi xuất phát nhiều hội dòng với các thành viên gồm những người lưu vong, hoặc là con em của dân nhập cư. Những đóng góp của họ cho đời sống của Giáo hội và xã hội trên đất nước này thật đáng kính trọng. Họ trở thành khí cụ thăng tiến các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là trong lãnh vực giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho người nghèo. Cùng với họ, nhiều anh chị em Phan Sinh khác đã làm phong phú Giáo hội Mỹ qua sự hiện diện của chính họ. AEHM: nhánh Tuân thủ, Capuchin và Viện Tu ngày càng lớn mạnh; họ phục vụ các nhu cầu của Giáo hội Mỹ. Con số các đan viện của chị em nghèo khó Clara tăng lên, và những đan viện mới khác gây dấu ấn cho “mãnh đất chiêm niệm” của miền Bắc Mỹ. Con số ACESĐĐT (dòng Ba) lan rộng rất ngoạn mục vào những năm đầu của thế kỷ 19. Tầm quan trọng của người giáo dân trong Giáo hội được đề cao, và những làn sóng nhập cư đem theo những truyền thống của người giáo dân Phan Sinh Châu Âu, nay được áp dụng trong một bối cảnh mới.
Sau khi khảo sát sự lớn lên và phát triển của các nhánh AE Phan Sinh trong suốt dòng lịch sử, giờ đây trách nhiệm của chúng ta là nghiên cứu những giá trị và viễn cảnh họ đã chia sẻ, để hiểu được “điều gì khiến họ liên kết với nhau”. Nhiệm vụ này đưa chúng ta đến việc xem xét nền linh đạo của họ và một số lãnh vực của cuộc sống cũng như việc làm, tuôn trào từ viễn cảnh đời tu của họ trên thế giới.
👉 (đọc tiếp các chương tiếp theo tại đây)
Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.
Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.