Skip to content
Main Banner
Thánh Têrêsa Hài Đồng (01/10)
Ngôn ngữ

DÒNG ANH EM HÈN MỌN VÀ CÁC NHÁNH KHÁC NHAU

BTT OFMVN 01
2025-10-18 09:46 UTC+7 27
anhchiem-phansinh-1760752274.png

ANH CHỊ EM PHAN SINH

Tác giả: Tu sĩ William J. Short, OFM

Chuyển ngữ: Tu sĩ Irênê Nguyễn Thanh Minh, OFM


Chương II: DÒNG AEHM VÀ CÁC NHÁNH KHÁC NHAU

  • LỊCH SỬ CỦA SỰ PHÂN CHIA

  • THAY ĐỔI VỀ NƠI CHỐN

  • THAY ĐỔI VỀ HOÀN CẢNH

  • THAY ĐỔI CUNG CÁCH SỐNG

  • Ý THỨC VỀ CỘI NGUỒN VÀ MẦM MỐNG BẤT HÒA

  • NHÓM HƯỚNG LINH VÀ NGUỒN GỐC CỦA NHÓM

  • NHỮNG TUYÊN BỐ CỦA TÒA THÁNH

  • CÂU CHUYỆN GAY CẤN VỀ LUẬT DÒNG

  • CUỘC KHỦNG KHOẢNG NĂM 1274

  • NHỮNG BƯỚC TIẾN  TIẾP THEO

  • NHÁNH TUÂN THỦ VÀ SỰ PHỤC HƯNG LÝ TƯỞNG BAN ĐẦU

  • NHÓM TUÂN THỦ VÀ NHÓM VIỆN TU

  • NHÓM ẨN VIỆN (Retiros)

  • ANH EM CẢI TỔ (The Reformed)

  • NHÓM TỈNH NIỆM (Recollects)

  • Anh Em Capuchin


CHƯƠNG II :  DÒNG AEHM VÀ CÁC NHÁNH KHÁC NHAU

Trong một cuộc họp của các bề trên thượng cấp năm 1987, các nhà tổ chức đề nghị tôi (William J. Short) chuẩn bị một bài trình bày ngắn về ‘đặc sủng Phan sinh là gì’ trong nhánh của gia đình mà tôi thuộc về, là dòng AEHM? Dang lúc suy nghĩ về công việc nghiên cứu đã thực hiện để viết quyển sách này, tôi đi đến kết luận rằng: có thể chọn cái phương châm thích hợp sau đây để gọi dòng AEHM, đó là một ‘Dòng vô trật tự’(ordo sine ordine, dòng không có trật tự) hoặc ‘Tổ chức vô trật tự các AEHM’. Vì sao? – Vì khi vừa tạo được trật tự giữa các AE, thì y như rằng một nhóm nào đó liền bày tỏ ước muốn cải tổ’, và thế là một nhánh mới xuất hiện trong gia đình.

Quyển sách này nhằm giới thiệu các độc giả về người Phan sinh, hơn là giải quyết các tranh luận giữa các nhà chuyên môn. Tôi chọn cách tóm lược và đơn giản hóa bối cảnh lịch sử vốn phức tạp của dòng nhất, dòng AEHM. Mỗi thế kỷ trong 7 thế kỷ, đều phát sinh ít là một cuộc cải tổ; và nhiều thế kỷ phát sinh ba hay bốn; tuy nhiên không phải tất cả đều được đề cập ở đây.

Các chủ đề về cải tổ và tổ chức có thể là một trợ lực cho các người không chuyên môn hiểu được lịch sử dòng. Đơn giản là vì dòng Phan sinh đã lớn lên ngang qua những khoảnh khắc của nguồn cảm hứng cải tổ, giống như thời sơ khai của nó. Dần dần nguồn cảm hứng và ý thức về cuộc phiêu lưu mới trở thành lối mòn, khi cộng đoàn lại tìm được sự vững chắc và tính thống nhất lớn hơn. Một khi sự vững chắc này hoàn tất, một vài thành viên của cộng đoàn lại bất mãn, vì ý thức về nguồn cảm hứng và những khởi đầu mới đã bị đánh mất. Họ bắt đầu đòi hỏi ‘cải tổ’và thể hiện nó trong một cộng đoàn mới; cộng đoàn này dần dần đạt được sự bền vững lớn hơn, khi vòng xoay ‘cải tổ’ và ‘tổ chức’ cứ tiép diễn.

Chuyển động lui và tới này giữa cải tổ và tổ chức có thể được gọi là ‘biện chứng Phan sinh’, sự đối kháng năng động giữa hai khuynh hướng trong cùng một dòng, một khuynh hướng ly tâm và một khuynh hướng quy tâm, tiêu biểu cho nhiều nhóm khác, ngay cả cho Kitô giáo chúng ta.

Từ ngữ khác đã được dùng để diển tả 2 thái cực của chuyển động này: đặc sủng và cơ cấu, tinh thần và luật lệ, đổi mới và suy tàn. Chọn lựa các từ ngữ tùy thuộc vào sự đánh giá của tác giả về giá trị của 2 khuynh hướng. Trong từng thế kỷ của lịch sử dòng Phan sinh, các thành viên của ‘tổ chức’nghi ngờ các thành viên của’cải tổ’, xem họ như những người bất mãn ích kỷ và tự kỷ, chỉ muốn làm khác người để tỏ ra quan trọng hơn. Các người cải tổ thường quay ngược lại lời chỉ trích, bằng cách tố cáo các người ‘tổ chức’ là lãnh đạm, thiếu nhiệt huyết và bỏ rơi lý tưởng Phan sinh đích thực. Cả hai khuynh hướng đều có những thành viên thánh thiện và nhiệt thành, nhiều người đã được phong thánh. Và cả hai nhóm đều gây ra những vấp phạm và lạm dụng, hoặc ít nhất là có thái độ thù ghét đối với nhau.

Lịch sử của những phát triển này là câu chuyện của cớ vấp phạm, ‘cớ vấp phạm của lịch sử dòng Phan sinh’, như cách gọi của Lazarô Iriarte, nhà sử học đương thời về dòng Phan sinh nhánh Capuchin. Trong lời tựa cho công trình nghiên cứu lịch sử dòng Phan sinh, một công trình mà tôi đã thường xuyên dựa vào, Iriarte nhắc lại tư tưởng của Agostino Gemelli, nhà tâm lý học Phan sinh của thế kỷ này. Những cuộc đấu tranh nội bộ của dòng phản ảnh những khuynh hướng trái ngược trong chính đời sống của Phanxicô: ý thức mãnh liệt về kỷ luật và mối quan tâm về tự chủ; khao khát sống cô tịch và sự thôi thúc làm việc tông đồ giữa muôn dân; hướng chiều về sự hư vô và nhu cầu hoạt động. Trích dẫn nhà viết sử các dòng tu, L.Moulin, Iriarte viết tiếp: ‘Dòng trải qua nhiều khủng hoảng nhất, đó phải là dòng Phan sinh, một ví dụ đẹp về sự hổn loạn mang tính khải hoàn…Trên bình diện nhân loại, phải nhìn nhận rằng những chiến thắng lớn lao xuyên qua nhiều cuộc khủng hoảng, là dấu hiệu của một sức sống phi thường’.

Trong những trang kế tiếp, sự hỗn loạn và sức sống đi kèm, lôi kéo sự chú ý của chúng ta.

LỊCH SỬ CỦA SỰ PHÂN CHIA­

Tôi đang viết những dòng này   tại tu viện Phan sinh Monte Mesma, gần biên giới Ý- Thụy sĩ. Ngôi nhà này tọa lạc cao trên đỉnh đồi. Hướng về phía bắc là Thụy sĩ, phía nam là Piedmond-Ý, phía đông là Lombardy, phía tây là mặt trời đang dần khuất sau Monte Rosa (núi hồng)trên dãy Alps. Phía xa xa ngoài cửa sổ là hồ Orta với đảo nhỏ San Guilio và nữ tu viện dòng Benedicto cổ kính.

Dù khung cảnh hiền hòa và xinh đẹp, ngôi nhà này lưu giữ những ký ức hổn loạn và phân chia, sự tan rã rồi hợp lại hầu như liên tục của gia đình Phan sinh. Trong ngôi nhà này, trong cảnh yên bình của buổi tối mùa đông này, tôi ao ước kể lại câu chuyện cải tổ trong gia đình Phan sinh, tập trung vào lịch sử của dòng AEHM. Câu chuyện không chỉ riêng cho dòng này; cải tổ và phân chia cũng chạm đến các CENK và các ACESĐĐT nữa; nhưng câu chuyện của AEHM minh chứng rõ nét tính năng động của việc cải tổ, vốn ảnh hưởng sâu đậm trên các nhánh của gia đình Phan sinh. Tu viện Monte Mesma được thành lập vào thế kỷ thứ 17 như một nhà cho anh em’riformati’, anh em cải tổ. Ngay tên gọi của nó cũng gợi cho thấy rằng các phân chia giữa AEHM đã xảy ra từ 4 thế kỷ trước và kéo dài cho đến khi Monte Mesna được thành lập.

Làm sao ở đây lại có một nhóm AEHM tự gọi mình là ‘cải tổ’? Họ họp nhau lại trong thế kỷ thứ 16, để cổ võ một lối sống nghiêm nhặt và chiêm niệm hơn giữa AEHM. Họ chia sẻ nhiều giá trị đặc trưng tìm thấy nơi nhóm khác,nhóm AEHM -thuộc- đời- sống- ẩn- tu, mà ngày nay người ta gọi là Capuchin. AEHM Capuchin được nhìn nhận là một nhóm độc lập năm 1628, trong lúc anh em ‘cải tổ’vẫn còn ở trong quỹ đạo của AEHM Tuân thủ, nhóm này đã phát sinh hai nhóm kia.

Nhưng AEHM Tuân thủ là ai? Họ là thành viên của một cuộc canh tân sớm hơn, đã xảy ra trong dòng từ thế kỷ thứ 15. AEHM Tuân thủ trở thành một đơn vị tách biệt năm 1517, khi, với sắc chỉ của ĐGH, hội dòng phân chia thành hai nhánh độc lập, một gọi là AE Tuân thủ và nhánh kia là AE Viện Tu. Ba nhánh này, Viện Tu, Capuchin và Tuân thủ, vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay, như ba dòng tu độc lập. Cùng với nhau họ làm thành ba nhánh của dòng’nhất’ thuộc gia đình Phan sinh, còn gọi là AEHM.

Nhưng tại sao dòng lại phân chia như thế, để ngày nay có 3 nhánh độc lập trong dòng AEHM? AEHM phân chia trong những năm đầu tiên của thế kỷ 16, cùng thời kỳ với Cải cách Tin lành, vì những sự khác biệt không hàn gắn được liên quan đến cách giải thích và sống luật dòng. Tranh cãi làm cho anh em Tuân thủ đối đầu với anh em Viện tu trong suốt thế kỷ 15. Những tranh cãi này làm nhớ lại những mâu thuẩn đau lòng và đôi khi kèm theo bạo lực giữa những anh em có thiện cảm với những quan điểm cứng rắn của nhóm Hướng linh và những anh em thuộc nhóm cộng đồng ôn hòa của thế kỷ 14.

AE “Cộng đồng” và AE Hướng linh (the friars of Community and the Spirituals) đại diện cho quan điểm của hai thực thể lớn, vốn được kế thừa từ những anh em sống vào thế kỷ 13, trong đó có cả những người sống cùng thời với Phanxicô. Trong chương này, chúng ta sẽ khảo sát cách vắn tắt sự biến chuyển năng động của sự tan vỡ và tái hợp, vốn là nguyên nhân dẫn đến những nhánh khác biệt này.

Một công trình nghiên cứu chuyên sâu với tựa đề “Reform and Division in the Franciscan Order” (Cải tổ và Phân chia trong dòng Phan sinh) giải thích những chuyển biến này một cách xuyên suốt từ thời Phanxicô đến cuộc cải cách Capuchin. Ở đây cách tốt nhất là tóm lược lại công trình của tác giả Ducan Nimmo, mà không tự hào đưa vào trong những trang sách ít ỏi này tất cả những thông tin quan trọng tác giả đã trình bày cách tuyệt vời trong bài nghiên cứu gần 700 trang giấy.(Duncan Nimmo, Reform and division in the Medieval Franciscan Order : from Saint Francis to the foundation of the Capuchins (Bibliotheca Seraphico-Capuccina 33) (Rome: Capuchin Historical Institute, 1987)).

Để thấu hiểu những cách thức trong đó mầm mống của cải tổ và phân chia liên miên được trồng vào trong tâm điểm của phong trào Phan sinh, chúng ta có thể tập trung sự quan tâm vào một ít điểm quan trọng của ‘lối sống’ mà Phanxicô đã để lại cho các AEHM trong bản luật của Ngài.

Như Nimmo nhấn mạnh, chương 10 của bản luật là một văn bản lạ lùng được thấy trong một tài liệu mang tính pháp lý, lại là căn bản pháp lý cho dòng AEHM. Trong đó Phanxicô viết:

 ‘Các anh em dưới quyền hãy nhớ rằng vì Thiên Chúa, mình đã từ bỏ ý riêng. Vì thế, tôi buộc nhặt anh em phải vâng lời các anh Phục vụ trong tất cả những điều đã hứa với Chúa sẽ tuân giữ và những điều không nghịch với lương tâm cũng như với Luật Dòng chúng ta. Bất cứ ở đâu, nếu anh em nào nhận thấy rõ ràng mình không thể tuân giữ tinh thần Luật Dòng, thì có bổn phận và có thể chạy tới các anh Phục vụ của mình. Phần các anh này, hãy tiếp đón họ cách nhân hậu và dịu dàng, phải tỏ ra thân mật sao cho họ có thể nói năng và cư xử với anh như chủ đối với tôi tớ vậy. Quả thật phải như thế vì anh Phục vụ là tôi tớ của toàn thể anh em’. (chương 10,2-5)

Mới đọc, bản văn này dường như không có gì đáng chú ý cả. Anh em phải sống vâng phục và có quyền không vâng phục nếu như vị phục vụ đòi hỏi một điều gì đó’trái với lương tâm’ hay đi ngược lại với bản luật mà họ đã thề hứa tuân giữ.

Chúng ta có một ví dụ về một bản văn viết tay của Phanxicô giúp chúng ta suy nghĩ sâu xa hơn về điểm này. ‘Thư gửi anh Lêô là bút tích duy nhất của vị thánh, trong đó Phanxicô viết: ‘Nếu con thấy có cách nào tốt hơn để làm đẹp lòng Thiên Chúa và noi theo gương nghèo khó của Người, thì con cứ làm với phúc lành của Thiên Chúa và sự ưng thuận cùa cha’ (câu 3).

Phanxicô chúc lành cho Lêô khi Lêô vâng lời bằng cách tự mình chọn lựa cách tốt nhất để đi theo ‘vết chân’ ĐK và sự nghèo khó của Người. Nói cách đơn giản, mệnh lệnh của vâng lời là ‘làm điều mà anh nghĩ là tốt nhất’. Vâng lời đây dựa trên sự tự do cá nhân, được gợi hứng bởi ước nguyện làm đẹp lòng Chúa và noi theo gương mẫu của Người. Lịch sử cho chúng ta thấy nhiều anh em, ao ước đi theo vết chân Chúa và sự nghèo khó của Người, và thực hành các lời dạy của Luật chương 10, khám phá ra rằng:

-          Họ không thể vâng lời vị phục vụ của mình theo lương tâm cũng như theo Luật dòng

-          Họ không thể giữ luật dòng theo tinh thần ở những nơi họ đang sống

-          Và khi họ chạy đến các phục vụ, những vị này đã không luôn luôn tiếp nhận họ cách tử tế.           

Vì thế, khi có vấn đề nan giải : liệu họ phải vâng phục các phục vụ của mình, dù đi ngược lại với lương tâm và luật dòng? Hay họ phải sống theo luật dòng và lương tâm của mình, dù phải bất tuân các phục vụ và gánh chịu hậu quả?

Những khó khăn như thế có lẽ đã khởi sự từ thời Phanxicô còn sống: chúng trở nên rõ ràng hơn sau cái chết của Phanxicô. Ở đây chúng ta đặt câu hỏi ‘Điều gì đã gây nên cuộc khủng hoảng lương tâm giữa anh em?’. Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta cần xem xét những thay đổi trong cuộc sống của anh em: thay đổi nơi chốn, hoàn cảnh và cách sống. Phản ứng trước những đổi thay này dẫn đến khủng hoảng sâu xa, là nguồn gốc các phong trào đưa đến cải tổ và cuối cùng là phân chia trong dòng AEHM. 

THAY ĐỔI VỀ NƠI CHỐN 

Các nơi định cư ban đầu của anh em Phan sinh được gọi cách đơn giản là ‘loci’ (nơi ở). Những chỗ định cư này thường là một nhà nguyện bị bỏ hoang với một vài nơi nương náu tạm bợ chung quanh đó, ở ngoài thành phố. Một vài nơi đó như là Poortioncula, gần Assisi, chỉ một khoảng đi bộ từ thành phố. Những nơi khác như miền đồi núi La Verna, càng cô tịch hơn. Các anh em sống ở ‘những nơi chốn’ gần thành phố trong những năm đầu. Một người đương thời, Jacques de Vitry, mô tả như sau: ‘ban ngày họ làm việc trong các thành phố cho ơn cứu độ của người khác. Ban đêm họ trở lại chỗ ở của họ, bên ngoài thành phố, để lo cho bản thân bằng việc cầu nguyện’(Thư I, trong Iriarte, tr.151). 

Cuộc sống của họ là ở ‘ngoại ô’,bên ngoài thành phố, và chủ yếu là làm việc và cầu nguyện. 

Ở những nơi ngoại ô như thế này, ban ngày họ làm việc trong các nhà thương giúp người phong cùi, gần Poortioncula; rồi làm việc chung quanh các nơi họ ở : như làm vườn, đốn củi và nấu nướng. Họ làm công việc nội trợ trong các tư gia( ngoại trừ công việc của người quản gia); và họ vận dụng những kỷ năng chuyên môn để trang trãi những nhu cầu thiết yếu. Những kỷ năng chuyên môn này đặc biệt quan trọng và được bàn đến trong một chương đặc biệt của luật dòng (chương 5), nơi đây Phanxicô nhấn mạnh mỗi anh em hãy phát huy năng khiếu hay nghề nghiệp, và sở hữu dụng cụ cần thiết để tiếp tục làm việc. Thông thường anh em kiếm sống bằng cách làm việc, nhận thù lao bất cứ thứ gì họ cần, ngoại trừ tiền bạc. Khi làm việc mà không đủ sống và trang trãi cho các nhu cầu thiết yếu, anh em có thể đi xin ăn từng nhà, nhưng không được phép tích trữ của cải cho tương lai. 

Anh em cũng đi giảng. Gương sáng qua việc làm và sống khiêm hạ là hình thức rao giảng bắt buộc đối với mọi người. Họ cũng rao giảng bằng những lời lẽ ngắn gọn, hãy thực hành các nhân đức và tránh nết xấu. Một số anh em, với phép của phục vụ mình, và sau khi đã xem xét kỹ kưỡng, có thể chính thức rao giảng về các vấn đề đức tin. Tuy vậy, họ chỉ được rao giảng khi được giám mục địa phương cho phép. 

Thông thường anh em không định cư một chỗ. Họ di chuyển khá nhiều, từng hai người một; làm việc và khất thực nhằm nuôi sống mình, mỗi khi họ rao giảng ở một vùng nào đó. Cũng có một số anh em nhận những chuyến đi dài trong tư cách là nhà truyền giáo như Phanxicô đã thực hiện ở Trung đông. 

Đối lại với những nơi đông đúc dân cư, là những nơi xa xôi hẻo lánh, như miền núi La Verna ở Tuscana; đời sống ở đây chiêm niệm hơn nhiều, mặc dù vẫn còn nhiều nét giống đời sống ở vùng ngoại ô. Cũng có những công việc tầm thường như lên núi đốn củi, chăm sóc vườn tược và nấu nướng. Nhưng anh em ở đây, vào ban ngày,vẫn giữ bầu khí ‘ở nhà’, hầu như tuyệt đối yên lặng và cầu nguyện, một hình thức Phan sinh đặc trưng của đời sống ẩn sĩ. Vì số anh em tăng lên, vào những năm sau Phanxicô và nhất là vào thập niên sau cái chết của Ngài, nên có một ‘phong trào hướng về đô thị’ trong dòng. Thường là do các vị lãnh đạo thành phố mời, anh em chuyển đến các nơi trong thành phố, trong các nhà của các ân nhân tặng. Người ta cũng tặng nhiều nhà thờ thuộc thành phố, hoặc xây dựng nhà thờ mới cho anh em.Anh em bắt đầu đảm nhận những công việc có tính cố định và đặc biệt là những công việc có tính cách phục vụ Giáo hội: cử hành kinh nhật tụng long trọng hơn trong các nhà thờ, linh mục dâng lễ, giảng lễ, ngồi tòa, tư vấn và khuyên bảo các tín hữu, cử hành nghi thức an táng và tiếp nhận của dâng cúng do các việc phục vụ này. 

Càng ngày người ta càng cần đến việc phục vụ của anh em: Giáo hội nhận thấy các nhu cầu cấp thiết về mục vụ của các tín hữu đã được anh em đáp ứng rất tốt đẹp. Các dịch vụ linh mục làm là cần thiết nhất, vì vậy Dòng đáp ứng bằng cách tuyển chọn ngày càng nhiều linh mục hoặc ứng sinh linh mục như là những thành viên mới.

THAY ĐỔI VỀ HOÀN CẢNH 

Ở đây có 2 đổi thay cùng xảy ra cùng một lúc : đổi thay nơi chốn và đổi thay hoàn cảnh, từ bên ngoài thành phố vào bên trong thành phố, và từ giáo dân qua giáo sĩ. Sự thay đổi rất mau, chỉ trong vòng 10 năm sau cái chết của Phanxicô, dù nó đã bắt đầu trong những năm cuối đời của Ngài. 

Sự thay đổi kép- thành thị và giáo sĩ- ngày một tăng lên vì nhu cầu học vấn nhằm chuẩn bị cho các thành viên đảm nhận liên quan đến Giáo hội. Đã có một số ‘sinh viên đại học’giữa những anh em thưở ban đầu: Phêro Catani, một giáo dân có bằng luật sư; Antôn thành Padua, một linh mục và giáo sư thần học. Chỉ ít lâu sau cái chết của Phanxicô anh em mau chóng chuyển hướng vào các đại học: Paris, Oxford, và Bologna. Con số anh em sinh viên gia tăng đáng kể, và môn Triết- Thần được nhìn nhận như một ‘công việc’ hợp lý của anh em. Việc lao động chân tay dần dần được xem như không xứng đáng với các giáo sĩ. Việc thụ phong linh mục được coi như luật đối với mọi anh em: tu sĩ giáo dân chỉ được nhận với phép đặc biệt. 

Tinh cách thành thị và việc giáo sĩ hóa lại được củng cố thêm lên bởi chương trình học vấn. Các trường đại học thì tọa lạc ở các trung tâm thành phố, và anh em thì cần những ngôi nhà lớn gần đó để đào tạo sinh viên. Cần nguồn tài chánh để nuôi ăn và có chỗ ở cho đông đảo giáo sư và sinh viên. Cần xây những nhà thờ lớn để tiếp đón đám đông tín hữu đến tham dự các buổi thuyết giảng và cử hành phụng vụ. Của dâng cúng giờ đây thường là tiền bạc, nó trở thành nguồn thu nhập chính, thay thế những thành quả do việc làm tay chân. Thói quen khất thực trước đây được hiểu như việc gây quỹ có tổ chức ở qui mô lớn nhằm cung cấp cho các cơ sở to lớn và đắt đỏ đang tăng lên. 

THAY ĐỔI CUNG CÁCH SỐNG 

Những chuyển biến này cùng nhau tạo nên sự đổi thay trong cung cách sống; từ những nơi ở nhỏ bé, ngoại ô đến những cộng đoàn hoặc ‘tu viện’ lớn hơn trong các thành phố; từ cộng đoàn lưu động đến tu viện cố định; từ lối sống chú tâm vào chiêm niệm đến cuộc sống bị chi phối bởi mục vụ giáo xứ và giảng dạy; từ cộng đoàn mang đậm tính giáo dân đến một cộng đoàn phần lớn là giáo sĩ; từ việc sống bằng lao động tay chân và khất thực đến việc sống bằng tặng phẩm do tín hữu dâng nhờ các dịch vụ tôn giáo. 

Chẳng có gì phải ngạc nhiên khi một số anh em bắt đầu phản đối những ‘thích nghi’ này và kêu gọi trở về hệ thống cũ: về nơi chốn, hoàn cảnh và cách sống trước kia. Lời kêu gọi trở về với những giá trị sống ban đầu làm nổi bật tầm quan trọng của ba vấn đề có liên hệ mật thiết với nhau; sự quan trọng của đời sống cô tịch; vai trò của anh em giáo dân; và tuân giữ sự nghèo khó đích thực. Trong những thế kỷ sau, phong trào cải tổ này đến phong trào cải tổ khác tái khăng định vị thế ưu tiên của đời sống chiêm niệm mà biểu tượng là ẩn viện; đề nghị một vai trò lớn hơn cho các anh em giáo dân; nhấn mạnh đến lối sống nghèo khó triệt để hơn cho anh em. 

Câu chuyện về những nỗ lực cải tổ thường là câu chuyện buồn, bao gồm việc bất khoan dung, ẩu đả, tù đày, và thậm chí gây chết chóc ác liệt. Ở một góc độ nào đó thì đây cũng là câu chuyện của lòng dũng cảm, nhân đức, hiểu biết nhau và chiến thắng của bác ái huynh đệ. Những câu chuyện này là phần di sản để lại cho tất cả anh em Phan sinh đương thời, đặc biệt cho anh em dòng nhất. Chúng quyết định, bất kể kết quả tốt hay xấu, chúng ta là ai hôm nay, một hội dòng vừa được cải tổ vừa bị phân chia. 

Ý THỨC VỀ CỘI NGUỒN VÀ MẦM MỐNG BẤT HÒA 

Các dấu hiệu bất bình trong dòng giữa một số AEHM ở nước Ý xuất hiện rất sớm vào khoảng thập niên 1230, chỉ vài năm sau khi Phanxicô qua đời. AE bất bình với lối sống của một số đông AE, và kêu gọi trở về với lối sống của Phanxicô và của AE tiên khởi. Một số các AE tiên khởi hãy còn sống và trở thành điểm quy chiếu cho ‘thế hệ thứ ba’. Thế hệ này không đích thân biết Phanxicô. Họ làm thành ‘thế hệ thứ hai’, thế hệ của bành trướng và thích nghi của thập niên 1220. Giờ đây họ lãnh đạo phong trào cải tổ, kêu gọi trở về với lý tưởng và thực hành của thưở ban đầu. Một lý do gây chia rẽ trầm trọng là quan niệm phải sống lối sống Phan sinh như thế nào, vì quan niệm này tùy thuộc vào các mức độ thông tin khác nhau về Phanxicô và về lý tưởng của dòng thưở ban đầu. Trong vòng một thập niên sau cái chết của Phanxicô, nhiều anh em biết rất ít về nguồn gốc của dòng. Những thành viên của thế hệ thứ hai và thứ ba Phan sinh ít có liên lạc với cội nguồn của dòng, cho dù là qua sự hiểu biết cá nhân hoặc qua truyền thống văn học. Chẳng hạn một người vào dòng năm 1240 tại Đức, sẽ chỉ có một hiểu biết mơ hồ về cội nguồn của dòng, các lý tưởng cũng như thực hành. Người ấy sống xa cách về mặt địa lý với trung tâm dòng tại Portioncula, và có thể không có liên lạc gì với các thành viên sáng lập HĐĐ. 

Bản thân Phanxicô cũng đã rút lui khỏi lãnh đạo dòng từ những năm dòng phát triển mạnh nhất. Nimmo nghĩ rằng có thể khoảng thời gian tu nghị 1217, Phanxicô đã từ bỏ chức vụ TPV. Từ khoảng thời gian đó (hoặc có thể ít năm sau), vị sáng lập trở nên xa cách hơn đối với HĐĐ đang phát triển. Khoảng thời gian 1219-1220 Ngài ở bên Ai cập và Cận đông, và chỉ trở về Ý để soạn thảo bản luật, trình bày bản viết thứ nhất năm 1221 và bản viết chung kết năm 1223. Sau khi bản luật được phê chuẩn, Ngài càng xa cách do bệnh nặng và lui về với đời sống ẩn dật. Lễ Giáng sinh năm 1223, Ngài mừng lễ tại ẩn viện Greccio, và tháng 9 năm 1224 Ngài nhận Năm dấu thánh tại La Verna. Ngài dành hết thời gian trong những nơi cô tịch, cùng với một số bạn đồng hành thân tín, mà hình như không một ai trong nhóm này ở trong ban điều hành chính thức của Hội dòng đang lớn mạnh. 

Trong khoảng thời gian thuộc ‘thế hệ thứ hai’ này, phong trào Phan sinh lan rộng ra bên noài nước Ý. Những AE vào dòng trong những năm này ít tiếp xúc với Phanxicô và các bạn thân tín của Ngài. Trong những năm cuối đời, 1223-1226, thay vì thăm viếng cá nhân, Phanxicô viết những lá thư luân lưu để liên lạc với AE, viết Di chúc và Nguyện ước ngắn cuối cùng Ngài gửi cho Clara và CE. Những bản văn này rất hệ trọng đối với Phanxicô , và Ngài mời gọi AE giữ lại và sao chép chúng. Bất chấp ước nguyện của Phanxicô , những bản văn này hầu như không được đa số AE biết đến vào thế kỷ thứ 13. Bản Di chúc đặc biệt bị bỏ ra một bên:’…chúng ta có thể nghĩ rằng đa số AE lẫn tránh nó, đơn giản chỉ vì khó thực hành’ (Nimmo,tr.72). 

Nếu không thể liên lạc cá nhân với Phanxicô được, và sự hiểu biết về các văn bản của Ngài mong manh, thì còn lại các truyện ký như là nguồn cung cấp thông tin. Những công trình có ý nghĩa nhất là những tác phẩm của Thomas Celano, Truyện thánh Phanxicô quyển thứ nhất và quyển thứ hai, và Tuyển tập các phép lạ. Ba tác phẩm này được soạn thảo rất khác nhau, và trãi dài khoảng thời gian 20 năm sau cái chết của Phanxicô. Tu nghị 1260 đề nghị Bonaventura soạn thảo một quyển mới, và Tu nghị 1263 tại Pisa đã phê chuẩn: Legenda major (Đại truyện). Năm 1266 tại Paris, Tu nghị quyết định bãi bỏ mọi Hạnh truyện khác trước đó. (Có điều lạ là Tu nghị Padua năm 1268 đã tuyên bố tìm thấy những bản viết vô danh về Phanxicô và các bạn thưở ban đầu). Tác phẩm của Bonaventura, trong lúc nói chung là chính xác, vẫn có phần thích ứng khuôn mặt của Phanxicô để ủng hộ cho quan điểm của Dòng và sứ mạng của Dòng trong Giáo hội như đã được quan niệm vào giữa thế kỷ 13. Đối với đa số AE, cùng với Bản Luật, tác phẩm của Bonaventura trở thành nguồn kiến thức hầu như duy nhất về thưở ban đầu của Dòng. 

NHÓM HƯỚNG LINH VÀ NGUỒN GỐC CỦA NHÓM 

Nhóm Hướng linh là một nhóm có ý định tái tạo lại đời sống của Phanxicô và các bạn thưở sơ khai. Họ xác tín rằng nhiều phương cách mà Dòng đã thích nghi với những hoàn cảnh mới đã thực sự thay đổi hướng đi mà Phanxicô đã thiết lập. Họ ao ước được trở lại với việc tuân giữ luật dòng một cách tinh tuyền hơn, và coi Di chúc của Phanxicô là chìa khóa để giải thích Luật dòng. Họ là những người đặc biệt may mắn được liên kết với thưở ban đầu của Dòng bằng 2 mối dây bền chặt là sự liên lạc cá nhân và sự am hiểu tường tận về truyền thống văn chương sâu rộng mà hầu như chưa được đa số AE trong Dòng biết đến . Như tác giả Nimmo minh chứng cách thuyết phục, những người này tiếp cận nhiều thông tin về cội nguồn của Dòng hơn là đa số các AE khác. 

Nếu chúng ta nghĩ rằng, khi Phanxicô chết năm 1226, một số các môn đệ đầu tiên sống lâu hơn ngài 50 năm, thì có nhiều khả năng các AE Hướng linh có những liên lạc cá nhân với các bạn đồng hành tiên khởi, là những mẫu gương gây cảm hứng cho họ. Bernard Quitavalle, người đồng hành đầu tiên, theo Phanxicô năm 1209 và sống đến năm 1242. Clara mất năm 1253. Giles, người đồng hành thứ ba, có lẽ mất muộn hơn năm 1261. Từ những người thường được gọi là ‘Ba người bạn’, là những bạn bè thân tín nhất của Phanxicô và cố vấn của Ngài, thì dường như Angelo Rieti chết năm 1258, Rufino và Leo muộn hơn là năm 1278, nghĩa là hơn 50 năm sau vị sáng lập. 

Những môn đệ đầu tiên này vẫn giữ liên lạc với nhau, và Clara được xem như là trung tâm của nhóm cho đến khi Clara qua đời. Tầm quan trọng của mối liên hệ cá nhân nơi truyền thống của AE Hướng linh có thể được nhìn thấy nơi câu chuyện cá nhân của Angelo Clareno. Anh mất năm 1337, hơn một thế kỷ sau Phanxicô. Anh vào Dòng khoảng năm 1260, hơn ba thập niên sau Phanxicô qua đời. Anh có gặp Angelo Rieti và Giles (với Anh John, người bạn trung tín của Giles), và có lẽ cũng biết anh Leo. Dù không trực tiếp biết , anh biết rõ những người đã từng sống với Phanxicô từ thưở ban đầu. 

Một thí dụ khác là trường hợp của Ubertino da Casale. Sinh vào cuối thập niên 1250, Anh nói là có nghe nói về Phanxicô do một số bạn bè của thánh nhân. Không phải ai cũng tin rằng Ubertino đã thực sự gặp gỡ những AE thuộc thế hệ đầu tiên, nhưng Anh và Angelo thực sự thuộc về một thế hệ những AE có thể đã gặp gỡ những AE thuộc một thế hệ sống trước họ. Những AE thuộc thế hệ đi trước này chia sẽ những lý tưởng giống lý tưởng của AE hướng linh, cho dù họ không bao giờ gia nhập nhóm này. Trong số những người này, chúng ta có thể lưu ý đến một người có tầm cỡ: John Parma,TPV từ năm 1247 đến 1257, vị tiền nhiệm của Bonaventura. Năm 1294, trong thời gian nghĩ hưu bị bó buộc này tại ẩn viện Greccio, người đàn ông già nua này đã để lại ấn tượng lâu dài trên người thanh niên Ubertino, cũng đang sống ở đây.

Một nhân vật nổi bật khác nữa là Conrad Offida, vùng Marches Ancona. Một người bạn của anh Leo, và một người bạn của AE Hướng linh, mặc dầu không thuộc về nhóm này, Conrad giữ liên lạc với Angelo Clareno và Ubertino, có lưu giữ những câu chuyện anh nhận được từ anh Leo và những người bạn tiên khởi khác của Phanxicô. James Massa, cũng từ miền Marches, là một nhà sưu tầm lớn các câu chuyện của ‘những ngày xa xưa’. Anh là bạn của anh Leo, Giles, Clara và hai người bạn tiên khởi khác, Masseo và Simon. Anh giữ liên lạc mật thiết với Conrad Offida và với Angelo Clareno. 

Bên cạnh những mối liên hệ cá nhân với những người bạn tiên khởi, AE Hướng linh còn tiếp cận với một truyền thống văn học rộng lớn, chưa được khai thác hoặc được biết đến rộng rãi trong Dòng. Họ đã chứng tỏ một sự am hiểu của mình qua một sưu tập đầy đủ những bài viết về Phanxicô, thậm chí còn đề cập tới một số điều mà chúng ta không biết đến, có lẽ dựa trên một sưu tập do anh Leo thực hiện. Họ còn tiếp cận với những tư liệu mang tính lịch sử phong phú được sưu tập trong nhóm các bạn đồng hành. 

Chúng ta có thể kết luận từ nguồn thông tin này, như Nimmo đã trình bày, rằng: những AE thao thức trở về với lối sống ban đầu, dù là thành viên của nhóm Hướng linh, hay đơn giản chỉ có thiện cảm với lý tưởng của họ, sở hữu một mức độ kiến thức về nguồn gốc của Dòng cao hơn những người của Cộng đồng, đang chiếm đa số trong Dòng. Sự hiểu biết sâu sắc của họ với các thành viên tiên khởi và một sưu tập rộng lớn hơn về văn chương Phan sinh đã khiến họ chống lại ngày càng mạnh mẽ hơn trước những đổi thay trong đời sống của Dòng. 

NHỮNG TUYÊN BỐ CỦA TÒA THÁNH 

Trọng tâm cuộc tranh cãi giữa nhóm Cộng đồng và Hướng linh là giáo huấn và gương sáng của chính Phanxicô, đặc biệt là việc tuân giữ đức nghèo. Vào những năm ngay sau khi Phanxicô qua đời, việc tuân giữ này được giảm nhẹ bởi các sắc lệnh tòa thánh, nhằm đem lại sự vững chắc và phát triển cho Dòng; đây là một sự thích nghi mà giáo triều xem là cần thiết và có hiệu lực pháp lý. Năm 1230, với tuyên bố chính thức của tòa thánh trong sắc chỉ Quo Elongati, Đức Gregory IX phán quyết rằng Di chúc của Phanxicô không có tính bó buộc như một văn bản pháp lý. AE chỉ buộc tuân giữ các lời khuyên Phúc âm được xem như những lệnh truyền trong bản luật. 

Với sắc chỉ này, ĐGH cũng chấp thuận chức vụ người quản lý tiền của cho AE, bởi vì luật cấm AE nhận tiền bạc. Người quản lý này (nuntius) là một giáo dân hành động như nhân viên của các ân nhân của AE, để giải quyết các tiền của bố thí, dùng tiền để cung cấp cho các nhu cầu của AE, mà không buộc AE đụng chạm đến tiền bạc. Phép dùng chức vụ người quản lý này, giúp AE sống nghèo khó về mặt pháp lý(tài sản nằm trong tay của một người ngoài dòng), trong khi vẫn cho phép AE tiến hành các chương trình gây quỹ cho những dự án xây cất và cung cấp nơi ăn chốn ở cho số lượng lớn AE, đặc biệt là tại các trung tâm học vấn lớn. Trong thực tế, AE ngày càng bắt đầu tìm kiếm sự an toàn, điều mà đối với một số người, quả là một sự vi phạm rõ ràng tinh thần, nếu không phải là chữ viết, của Luật dòng. 

Sắc lệnh của ĐGH cũng phân biệt rõ ràng giữa’quyền sở hữu’(ownership) và ‘quyền sử dụng’(use) để trấn an lương tâm của AE, trong lúc vẫn giúp Dòng lớn mạnh và ổn định về mặt tài chánh. Theo sắc chỉ Elongati, AE có quyền sử dụng tài sản (nhà cửa, sách vở, nhà thờ…), trong khi quyền sở hữu theo pháp lý của những tài sản này vẫn nằm trong tay của những người khác, hoặc của Giáo hội. Tuy vậy, trong thực tế, AE dần dần trở thành những sở hửu chủ đích thực, khi mà vấn đề sở hữu chủ trở thành một hư cấu pháp luật. Biến chuyển này gây lo ngại sâu sắc cho những ai, như AE Hướng linh, thấy rằng mục đích của lời khấn Phan sinh về nghèo khó nằm ở trong việc không-sở- hữu- của một cách triệt để. 

Những người cải tổ đòi hỏi phải trở lại việc tuân giữ Luật ‘theo mặt chữ’, loại trừ chức vụ những người trung gian tài chánh. Họ nhìn với ánh mắt nghi ngờ việc mở rộng học vấn và việc phát triển dịch vụ giáo xứ tại các nhà thờ ở thành phố. Họ đề nghị mở rộng vị trí hoạt động cho tu sĩ giáo dân, trong đó một số AE là các vị lãnh đạo của phong trào cải tổ. Kêu gọi trở về với đặc tính chiêm niệm của lối sống Phan sinh, họ đặc biệt yêu mến các nơi cô tịch, nơi đó một số thành viên rất đáng kính của họ sống. 

Khi chọn lựa nhấn mạnh những điểm này trong lối sống Phan sinh, họ tìm gặp nguồn cảm hứng không những nơi bản Luật mà còn nơi Di chúc của Phanxicô. Trong tài liệu này, được viết kề cận trước khi qua đời, Phanxicô nhắc lại sự hoán cải của mình và lối sống của AE tiên khởi. Ngài nhấn mạnh đến nhiệm vụ tiếp nối của AE là sống theo thể thức mà Ngài đã chọn, cách riêng là việc thực hành nghèo khó. Sau khi Phanxicô qua đời, các sắc chỉ Giáo hoàng như là Quo Elongati, do Dòng yêu cầu, nêu rõ rằng Di chúc này không bó buộc AE về mặt pháp lý. Di chúc được coi như lời khuyên, chứ không phải là phán quyết được pháp lý phê chuẩn của vị sáng lập nói về đời sống của Hội dòng. 

Tuy vậy, AE cải tổ đưa ra lời chứng rằng lời khuyên này diển tả cách hiển nhiên ý muốn của Phanxicô. Cho nên, dù nó không bó buộc về pháp lý, chắc chắn vẫn bắt buộc về mặt luân lý đối với những ai muốn tuân giữ Luật dòng ‘theo tinh thần’(Sự nhấn mạnh của AE cải tổ về việc tuân giữ ‘theo tinh thần’ làm cho họ xứng đáng với tên gọi của mình, AE Hướng linh). Họ cũng chứng minh cho lập trường của mình bằng cách nại đến chính bản Luật, đặc biệt chương 10 về đức vâng lời. Ở điểm này, họ cũng lý luận: các vị phục vụ, khi chấp nhận các nhượng bộ của giáo triều liên quan đến việc gây quỹ và phớt lờ Di chúc của Phanxicô, đang thực sự buộc AE phải sống một lối sống ngược lại với lương tâm họ và với chính Luật dòng. Đây quả thật là những lý do mà Phanxicô nói đến khi viết: AE không còn bó buộc phải vâng lời vị phục vụ nữa. Xét rằng họ ‘không thể giữ Luật ‘theo tinh thần’ nơi họ ở, họ đã ‘chạy đến các anh phục vụ’, nhưng những người này đã không ‘tiếp đón họ cách nhân hậu và dịu dàng’. Tình thế thật lưỡng nan: phải vâng lời Phục vụ hay vâng lời Luật? 

Họ đã chọn lựa vâng lời Luật; và sự không vâng lời các phục vụ đã khởi động một bộ máy bắt bớ và đàn áp về luật pháp, luân lý và cả thể lý nữa. 

Năm 1274, có tin đồn rằng ĐGH Gregory X, tại công đồng Lyon, sẽ bãi bỏ các điều khoản của các dòng Hành Khất không muốn có của riêng. Tin đồn gây hoang mang cho một số AE trong tỉnh dòng Marches, vùng đồi núi gần Ancona ở đông bắc nước Ý. Tin đồn này, tuy không áp dụng cho AE Phan sinh, nhưng đã dấy lên một câu hỏi nghiêm trọng. ĐGH có quyền làm một việc như thế không?

Một số AE lý luận theo hướng này: nếu sự nghèo khó mà Phanxicô chọn lựa, tựu trung là không-sở-hữu-của-cải, là chính sự nghèo khó của ĐK và của các Tông đồ, thì ĐGH có thể miễn chuẩn AE khỏi giữ không? Họ kết luận là ‘không’: ĐGH không còn có thể thay đổi Luật cũng như thay đổi Phúc âm. 

Thái độ này có thể xem như là lạ lùng đối với độc giả ngày nay – vì có một sự khác biệt to lớn giữa Luật dòng Phan sinh và Phúc âm ĐGK. Nhưng sự khác biệt này không hiển nhiên vào thế kỷ 13. Để hiểu được sự khác biệt giữa não trạng này và não trạng của chúng ta, cần có một quá trình để giúp chúng ta cảm nhận được làm sao luật dòng lại được đồng hóa một cách mật thiết với chính vấn đề ơn cứu độ. 

CÂU CHUYỆN GAY CẤN VỀ LUẬT DÒNG 

Trong việc tìm kiếm ơn cứu độ của thế kỷ 13, Phanxicô và AE Ngài đã thừa hưởng gia tài thiêng liêng thế kỷ 12. Trong thời gian này, các nhà cải tổ kiếm tìm những quy luật chắc chắn khả dĩ bảo đảm con đường sự sống, những quy luật đã được các tín hữu sơ khai thực hành và truyền lại. 

Việc thao thức về ‘đời sống tông đồ’tập trung sự chú ý vào đời sống các tông đồ sau ngày lễ Hiện xuống, đó là lối sống của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Lối sống này đã là mẫu gương cho đời sống đan tu kitô giáo, nhưng, ít là ở phương tây, có những giải thích mới về ‘đời sống tông đồ’mà không thích hợp với cơ cấu thông thường của đời sống đan tu Biển đức. Giữa những yếu tố được nhấn mạnh cách mới mẻ, đặc biệt người ta thấy: sự nghèo khó và việc rao giảng công khai cho dân chúng. 

Nếu Luật Biển đức, bản luật dòng quan trọng hàng đầu của tây phương không cung cấp những yếu tố này cách đầy đủ, thì người ta phải tìm đâu cho ra ‘luật sự sống’, luật gồm tóm tất cả những yếu tố căn bản này? Từ người cải tổ này đến người cải tổ khác, họ trả lời rằng: chính ‘Phúc âm là luật sự sống’. Các kinh sĩ thuộc nhiều nhánh khác nhau, tạm thời chấp nhận Luật của Biển đức cho mẫu gương tổ chức của mình. Cũng vậy, các tu sĩ Grandmontines và các phong trào tương tự đã lấy những yếu tố của truyền thống đan tu ban đầu, nhưng với sự nhấn mạnh đến nghèo khó và rao giảng, được áp dụng vào lối sống ‘đời sống tông đồ’ của mình. 

Thomas Celano, viết Hạnh Phanxicô, đã phác họa khoảng khắc đầy xúc động trong lịch sử luật mới của dòng AEHM, khi Phanxicô xin ĐGH phê chuẩn. Được đề nghị chọn một trong những bản luật dòng sẵn có (Công đồng Latran IV cấm phê chuẩn luật dòng mới), Phanxicô trả lời: ‘Đừng nói với tôi về luật của Benado hay của Augustino hay của Biển đức, bởi vì Chúa đã chọn tôi trở nên một kiểu khờ dại mới cho thế giới này’. Khi viết luật dòng, Phanxicô cho thấy cam kết của mình là tuân giữ Phúc âm như cấu trúc cho đời sống của Dòng mới. Bản văn bắt đầu bằng những lời lẽ như sau: ‘Luật và đời sống AEHM là tuân giữ thánh Phúc âm ĐGK, Chúa chúng ta…’

‘Thể thức sống’ đầu tiên do Phanxicô đề xướng năm 1209 và được Đức Innocent III phê chuẩn bằng miệng không còn nữa. Có thể đây là một sưu tập các đoạn văn Phúc âm. Bản luật viết năm 1221 có những đoạn Phúc âm dài và những trích dẫn Kinh thánh khác. Bản luật có sắc chỉ chính thức năm 1223, cho dù có bàn tay của một cố vấn pháp luật (có lẽ là HY Hugolino, sau này là Đức Gregory IX), vẫn còn cho thấy căn bản Phúc âm; và những đòi hỏi của Phúc âm vẫn là quy luật sống cho AE. 

Nét đặc trưng của bản luật này là xác tín dứt khoát về sự cần thiết phải sống nghèo tuyệt đối để có thể sống theo Phúc âm. Điều này diển tả một chuyển dịch về tiêu điểm: từ gương mẫu của Giáo hội sơ khai đến gương mẫu của chính ĐGK. Trong lúc Giáo hội tại Giêrusalem được trình bày trong sách Công vụ tông đồ như là một cộng đoàn trong đó ‘họ để tất cả làm của chung’, thì ‘Giáo hội’ của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Tông đồ được trình bày trong Phúc âm như một cộng đòan, trong đó các thành viên không có gì cả: không có gậy hoặc túi tiền, cũng không có 2 áo. Vị Thầy cũng không có ‘chỗ dựa đầu’, và các môn đệ di chuyển từ nơi này sang nơi khác, rũ bụi chân lại nếu không được người ta tiếp đón. 

Chống lại tuyên bố của những người quả quyết rằng lối sống như thế là ‘không thể được’, những người khác ủng hộ quả quyết rằng suy nghĩ như trên là phủ nhận khả năng sống Phúc âm của bất cứ ai. 

Các môn đệ của Phanxicô dần dần triển khai một lý thuyết về luật dòng của mình, trong đó lý thuyết này được ca ngợi như là sự tổng hợp hoàn hảo nhất của Phúc âm. Thực ra, họ quả quyết rằng Luật này thì cao trọng hơn các luật hiện hành, vì luật này dẫn đến một lối sống phù hợp với gương mẫu của chính ĐK. Vì vậy gương mẫu này có trước và làm mẫu gương cho gương mẫu giáo hội: đó là đời sống của ‘Đức Giêsu lịch sử’ và các môn đệ, Đức Maria và nhóm 12, trong những năm tháng trước khi Giáo hội thành lập vào lễ Hiện xuống. 

Vì thế Luật dòng Phan sinh là ‘con đường dẫn đến ơn cứu độ’ rất chắc chắn. Tuân giữ các chỉ dẫn của luật dòng sẽ dẫn đưa người ta sống phù hợp với lối sống của chính ĐK, đặc biệt trong việc thực thi cùng một đức nghèo khó mà ĐK, mẹ Ngài và các tông đồ đã sống. 

CUỘC KHỦNG KHOẢNG NĂM 1274

Câu chuyện về việc đồng nhất hóa Luật Phan sinh với lối sống của ĐK và của các môn đệ tiên khởi giúp làm sáng tỏ tính quyết liệt về những điểm mà Luật dòng đề cao và được ca ngợi. Với tin đồn năm 1274 về việc ĐGH tuyên bố sẽ cho phép miễn chuẩn khỏi điều luật sở hữu tài sản, một vài AE đã mau chóng nhận ra rằng một hành động như thế chẳng khác nào miễn chuẩn khỏi làm chứng về sự nghèo khó trong Phúc âm. Điều này cũng có nghĩa là loại bỏ gương sáng của ĐK như là quy luật cho ơn cứu độ. Đây là một trong những điểm gây xung đột làm cho AE sớm chia rẽ nhau trong nội bộ dòng, và thậm chí chống lại giáo triều mà AE đã hứa kính phục và vâng lời, như đã ghi trong luật. 

Vấn đề trở nên gay gắt đặc biệt trong tỉnh dòng Marches. Những lời phê bình giận dữ của một số AE về các quyền của Giáo hoàng trong vấn đề này có vẻ như rất gần với thái độ bội giáo mà người ta gọi là lạc giáo vào thời Trung cổ. 

Bị các vị phục vụ đe dọa nặng nề, đa số đã rút lại những lời tuyên bố. Có 3 người đã từ chối và liền bị cởi áo dòng và giam giữ một năm trong những nơi cô tịch xa xôi. Sau khi ra khỏi tù và trong cuộc xét xử kéo dài 3 ngày, họ tỏ bày sự trung thành đối với bề trên trong một ngôn ngữ hàm hồ, vừa đủ để bảo đảm sự an toàn của mình. Tuy vậy chẳng bao lâu họ lại tiếp tục chỉ trích và bị bắt trở lại. Phong trào của họ lan rộng, gây nên vấn đề nghiêm trọng trong tương quan giữa Dòng và Tòa thánh. Một phiên họp của các vị phục vụ được triệu tập để giải quyết vấn đề, và đã kết tội những AE dám nói thẳng. Họ phải nhận bản án gay gắt: các lãnh đạo phong trào bị kết án tù chung thân và vạ tuyệt thông. Họ bị lấy hết sách vở, kể cả sách thần tụng, và sẽ không được chôn cất theo nghi lễ công giáo khi qua đời. Những AE được trao nhiệm vụ canh giữ những người này không được nói chuyện với họ và phải kiểm tra ổ khóa 2 lần mỗi ngày. Bản kết án được đọc hằng tuần cho mọi AE trong tu nghị địa phương, và bất cứ ai dám chỉ trích những điều khoản này sẽ phải chịu cùng một hình phạt như là người phản bội. 

Những AE bị kết án là Pietro (thường gọi là Liberato) da Macerata, Tomaso da Tolentino, một ai đó tên là Trasmondo, và một môn đệ cuối cùng của phong trào, Pietro da Fossombrone. Người AE cuối cùng này, được biết đến nhiều hơn dưới tên là Angelo Clareno. Trong suốt 50 năm cho đến khi qua đời (chết năm 1337), Angelo phải chịu những hậu quả nặng nề do việc cứ trung thành ‘tuân giữ theo mặt chữ’ bản Luật dòng. Anh được coi như là ‘Cha của AE Hướng linh’. 

Những biện pháp nghiêm khắc này sớm đưa đến một nạn nhân khác. Anh Tommaso da Castel d’Emilio chống đối bản án mới được tuyên bố:’ Đây là điều trái với đạo lý và bất công, trái với luật Chúa và xúc phạm các thánh’. Nghe lời phản đối của anh, những người hiện diện liền đứng dậy, cởi áo dòng của anh và nhốt anh trong một phòng kín tối tăm. Bị ngược đãi và bệnh tật, anh chết chẳng bao lâu sau đó. Trung thành với lệnh truyền dành cho những người bất mãn, AE vất xác anh xuống một rãnh sâu, ‘lấp bùn đất dơ bẩn lại, để người đời khỏi nhìn thấy’ 

Sau hơn 10 năm tù đày, các lãnh đạo nổi loạn được phóng thích nhờ sự can thiệp của vị TPV đồng cảm với họ. Được gửi đến Armenia như là các nhà thừa sai, họ lại cũng bị các AE ở đây bách hại. Hai trong số họ trở lại tỉnh dòng Marches, nơi đây họ cũng bị mọi người xa lánh. 

Sự trợ giúp đến với họ trong một tình huống bất ngờ, đó chính là giáo triều. ĐGH Celestin V mới được bầu chọn, vốn là người đã sống như một ẩn tu, Ngài chấp thuận chương trình của họ và muốn bảo vệ họ khỏi bị bắt bớ. Ngài chính thức tách biệt họ khỏi các bề trên Phan sinh, và nhận họ thành một thực thể độc lập,’Những Ẩn Sĩ của Đức Celestine’(Friars of the Poor Life of Celestine V) hay, như họ sẽ được biết sau này, ‘little friars, Fraticelli’(AE nhỏ, tiểu đệ), tên gọi chẳng bao lâu sau đồng nghĩa với lạc giáo và ly giáo chống lại Giáo hội. Thật chẳng may mắn cho họ, vì 5 tháng sau đó, Đức Celestine từ chức. Cùng với các ẩn sĩ nghèo khó của mình, Đức nguyên giáo hoàng lui về Apulia miền nam nước Ý, với hy vọng sang đến Ai cập. Đức tân giáo hoàng, Bonniface VIII có chương trình mới: quân đội của ĐGH đem Đức Celestine đến ngôi nhà nguyện hẻo lánh ở Mount Gargano, nơi đây một nhóm AE giận dữ quở mắng Ngài gay gắt vì đã tán thành việc chia cắt đầu tiên trong dòng Phan sinh. 

Nhóm Ẩn sĩ nghèo khó đã đến Hy lạp. Chạy trốn khỏi các đồng nghiệp trước đây ở ven biển, nay họ đến Thessaly, ở đó, giữa những người Chính thống giáo, họ tìm thấy sự bình an. Angelo Clareno dấn thân học tiếng Hy lạp và tham gia vào các hình thức đời sống đan sĩ Chính thống giáo. 

NHỮNG BƯỚC TIẾN TIẾP THEO 

Dấu hiệu đặc trưng của AE hướng linh là tu phục ngắn, tồi tàn. Họ chú tâm vào các đồ dùng kém chất lượng và tuân giữ Luật dòng theo mặt chữ, không chú giải và cắt nghĩa. Tu phục của họ trở thành biểu tượng: áo vá cả trong lẫn ngoài bằng vải bố thô, theo lời khuyên của Phanxicô trong luật dòng, và dựa trên thực hành của AE tiên khởi. Liên quan đến việc sử dụng cách nghèo khó, họ nhấn mạnh rằng, ngoài việc Không-sở-hữu-của, sự nghèo khó đòi buộc tu sĩ chọn đồ dùng nào ít có giá trị. 

Uberto da Casale, như là lý thuyết gia, đã rút ra từ những tư liệu phong phú này những nguyên tắc cho đời sống Phan sinh. Năm 1310, trong phần mở đầu của tác phẩm Sanctitas vestra, ông liệt kê 7 đức tính đặc trưng làm nền tảng cho hội dòng là:

“…trên hết mọi sự là đức nghèo an vui; đức đơn sơ tinh tuyền, nhờ đó mà tránh được sự xảo quyệt dối trá; đức trong trắng không tì ố, nhờ đó tránh xa được sự ồn ào hổn loạn trần thế; đức khiêm hạ sâu thẳm, nhờ đó tránh mọi kiêu căng và những gì phương hại đến lòng kính trọng đối với hàng giáo sĩ; sự cầu nguyện chuyên cần và làm việc, chống lại sự chia trí,ở nhưng,tham lam thế tục; đức ái hoàn hảo,chống lại sự hận thù và bắt bớ lẫn nhau; nêu gương cho kẻ khác, hầu tránh gây xúc phạm cho các giáo dân yếu đuối”. 

AE Hướng linh đọc thấy trong những dòng chữ này một lời kêu gọi đích thực trở về với các điểm chính yếu, khôi phục lại viễn ảnh và các nhân đức, vốn không còn là nét đặc thù của Dòng vào đầu thế kỷ 14. Nhưng ngoài 7 đức tính của dòng, AE Hướng linh còn nhấn mạnh đến một số vấn đề khác. Ubertino đi đến cùng các giáo huấn của nhà luận chiến nổi tiếng từ Provence đến, anh Peter John Olivi. Ubertino đồng hóa việc ‘sử dụng nghèo khó’ với chính lời giảng của Phúc âm, cho rằng những ai chống lại nó, có thể bị coi như là dị giáo. Vì những quan điểm nguy hiểm này, anh bị đày ở La Verna; và trong vòng 7 tháng, anh viết tác phẩm ‘Cây sự sống’ (Tree of Life- Arbor vitae crucifixae Jesu). Cuốn sách này chứa đựng những trang đặc biệt về Đức Giêsu, xứng với các nhà thần bí lớn nhất, cùng với những cơn nổi giận có tính khải huyền chống lại Giáo hội và giáo hoàng, và viễn ảnh về Thời đại thứ 6 của thế giới, với sự trở lại của Phanxicô và cuộc chiến của Ngài chống lại Phản Kitô (Vorreux tr.291). 

Dưới sự dẫn dắt của các tác giả như là Ubertino, AE Hướng linh muốn tuân giữ Luật theo mặt chữ, không giải thích, không chấp thuận các tuyên bố của Giáo hoàng nhằm cổ vỏ sự thích nghi, phát triển và giáo xứ hóa hội dòng. Rõ ràng thái độ của họ dựa trên sự trung thành đối với Di chúc của Phanxicô. Vấn đề thẩm quyền của Giáo hội được đặt ra lên không thể tránh được, bởi vì những lời giải thích đến từ ĐGH; và không phải là không thường xuyên, AE Hướng linh có khuynh hướng xem các tuyên bố của ĐGH là nguyên nhân sự sa sút về kỷ luật trong hội dòng. Dẫu vậy, những tuyên bố của giáo triều vẫn không được tuân giữ. 

AE Hướng linh bị những AE Cộng Đồng ngược đãi ngày càng dữ dội hơn từ giữa năm 1270 và 1289. Khoảng ít năm giữa 1289 và 1295, anh TPV, Raymond thành Provence có cảm tình với họ. Hết nhiệm kỳ của anh này, họ lại bị ngược đãi cho đến khi đạt được thỏa ước tạm thời dưới triều Đức Clement V giữa năm 1309 và 1312, khi Ngài nổ lực áp đặt trên toàn dòng một thỏa hiệp dựa trên một ‘sự tuân giữ điều độ’ về luật dòng. Năm 1313 một nhóm AE Hướng linh ở Tuscane mất kiên nhẩn với tốc độ cải tổ, đã nổi loạn và chiếm đóng 3 ngôi nhà của tỉnh dòng họ làm của riêng mình. Sợ phản ứng từ phía Dòng và giáo triều, một số đã bỏ chạy đến Sicile sau đó. 

Tháng 4 năm đó, ĐGH Clement yêu cầu tu nghị bầu chọn một TPV ủng hộ nhóm Hướng linh, và yêu cầu ấy đã được đáp ứng nơi con người anh Alessandro thành Alessandria. Anh này tặng cho AE cải tổ 3 ngôi nhà miền Provence, là Narbonne, Beziers và Carcassone, bảo vệ họ khỏi bị AE khác ngược đãi. Năm 1314, cả ĐGH và TPV đều qua đời, và trong 2 năm trống ngôi của cả 2 bên, AE Hướng linh lại bị AE Cộng đồng bách hại, mất các ngôi nhà ít ỏi mà họ đã được trao ban trước đây. Chẳng bao lâu họ lại nổi dậy tại miền Provence, như đồng bạn của họ đã làm tại Tuscany, lấy lại nhà ở Narbonne và Beziers, và đuổi các kẻ đối lập ra. Những người nổi loạn này bị kết tội là ly giáo, bội giáo và dị giáo. Họ bị khai trừ và bị rút phép thông công. 

Năm 1316, một giáo hoàng mới và một TPV mới lên chức: John XXII và Michael Cesena. Họ quyết định đàn áp triệt để nhóm Hướng linh. Năm 1317, với sắc chỉ Sancta romana, nhóm Angelo Clareno chính thức bị loại trừ (dù rằng vẫn còn năng động). Nhóm được biết đến như Fraticelli bị rút phép thông công (gồm cả nhóm Hướng linh tách biệt như là nhóm Angelo, nhóm Beguines hay nhóm Bizzochi, những người giáo dân ủng hộ họ). Những AE- chạy- trốn- miền- Tuscane đến Sicily cũng được lệnh bắt lại; AE Hướng linh miền Provence bị tuyên án lạc giáo. Ngày 7 tháng 5 năm 1318, bốn AE Hướng linh cuối cùng bị tòa án dị giáo ra lệnh thiêu sống tại quảng trường Marseilles (Nimmo, tr.174). 

Năm 1322 ĐGH John tuyên bố rằng hội dòng trong thực tế là sở hữu chủ của một số tài sản đang dùng, và điều này thực sự mâu thuẫn với Luật dòng. Năm 1323, cũng ĐGH này ra sắc chỉ Cum inter nonnullos, chối bỏ sự nghèo khó tuyệt đối của ĐK và của các Tông đồ. Ở điểm này, ĐGH đã đi quá xa, ngay cả đối với quan điểm của một số người chống lại AE Hướng linh. Michael Cesena, TPV, Bonnaventura Bergamo, phát ngôn viên có thế giá của nhóm Cộng đồng và học giả người Anh William Ockham đã liên kết với nhau lên án ĐGH. 

50 năm tiếp sau đó, Dòng trãi qua một giai đoạn suy thoái nặng nề. Giai đoạn tiếp theo sự đoạn tuyệt với John XXII có thể được coi như thời kỳ vừa sôi động vừa tan rã. Tình trạng lỏng lẻo đầy vấp phạm và lạm dụng xuất hiện giữa nhóm Cộng đồng, trong lúc hiện tượng chống đối ngầm của nhóm Fraticelli vẫn còn đó; và 2 nhóm khác bắt đầu hợp tác: Nhóm Hướng linh cũ và nhóm Đệ-tử mới của Michael Cesena và William Ockham, sau khi đoạn tuyệt với John XXII năm 1328. 

Nhiều người trong họ chuyển đến các vùng biên giới của giáo hội: Armenia, Syria, Persia và Hy lạp. Chính anh Clareno trở về Ý và được viện phụ Biển đức ở Subiaco nâng đỡ, và sau năm 1317, Anh trú ngụ như ẩn sĩ tại Sacro Speco. Tại đây Anh dấn thân hướng dẫn các đồ đệ từ xa, viết lại những sự kiện đã đưa Anh đến cuộc sống lưu vong trong cuốn ‘Lịch Sử Bảy Nỗi Khốn Cùng của Dòng AEHM’. Các đồ đệ của anh tiếp tục mặc áo ngắn, rách rưới, vốn trở thành tiêu biểu của họ, và sống trong các ẩn viện xa xôi, thường được che chở nhờ các chức trách địa phương, giáo hội cũng như dân sự. Dưới áp lực của tòa án dị giáo, Angelo tạm thời lánh khỏi Subiaco và qua đời tại vương quốc Naples năm 1337. 

NHÁNH TUÂN THỦ VÀ SỰ PHỤC HƯNG LÝ TƯỞNG BAN ĐẦU 

Vào thập niên 1330, một phong tào cải tổ khác bắt đầu xuất hiện, mà trung tâm là miền nam Assisi, vùng Foligno, giáp ranh với miền mà người ta cung cấp nơi cư trú cho Angelo Clareno và các đồ đệ của anh. Phong trào này là của nhóm Tuân thủ, có nghĩa là ‘tuân thủ hơn’luật Phan sinh. Người lãnh đạo phong trào là Paolo dei Trinci, được biết dưới biệt hiệu là Paoluccio, ‘Paul nhỏ’. 

Paoluccino sinh năm 1309 trong gia đình dòng họ Trinci, lãnh chúa của miền Foligno. Một trong những người cậu của anh là giám mục ở Foligno; một người khác là giám mục gần Spoleto. Năm 1323, Paoluccio gia nhập Dòng tại Foligno, lúc 14 tuổi. Sau Paoluccini không bao lâu, một người tên là John Valle cũng vào dòng, cũng tại Foligno. Trong cộng đoàn này còn có một anh khác tên là Gentile Spoleto. Ba người này, bằng những cách thức khác nhau, sẽ tác động đến tương lai của cuộc cải tổ nhóm Tuân thủ. 

Paoluccio, con nhà quý tộc, lại chọn cuộc sống của AE giáo dân, có nghĩa là chọn những công việc vụn vặt, việc nội trợ trong cộng đoàn và trong nhà thờ, cầu nguyện, sống nghèo khó và khất thực. Giống Paoluccino, Gentile là một AE giáo dân. John Valle chịu chức linh mục sau khi vào dòng. Ba người này cùng một ý hướng chung là ‘cải tổ lối sống’. Ý muốn cải tổ này được nhiều người khác chia sẽ và khuyến khích, chẳng hạn một AE giáo dân khác trong cộng đoàn địa phương, Chân phước Tommaso Foligno và, như là cố vấn và bạn từ xa, anh Angelo Clareno. 

Năm 1334 TPV Geraldus Odonis cho phép John và Gentile lui về ẩn viện xa xôi tại Brugliano, trên ngọn đồi hiểm trở vùng đông bắc Foligno. Nơi đây John sống bình an, có lẽ với một số bạn đồng hành, bằng một cuộc sống khắc khổ và chiêm niệm trong suốt gần 20 năm, cho đến khi chết năm 1351. 

Vào năm 1346, TTN Venice đã sẵn sàng bày tỏ sự ủng hộ thận trọng đối với phong trào, vốn đã lan tràn đến một số ẩn viện khác trong 20 năm kể từ ngày John và Gentile lui về Brugliano. Có lẽ trong khoảng thời gian phát triển này mà Paoluccino dei Trinci gia nhập phong trào, hoặc ở chính Brugliano hoặc ở một trong những ẩn viện liên kết. 

Sự ủng hộ của Dòng, dầu vậy, không kéo dài được bao lâu. Năm 1350 khích lệ đã biến thành nghi ngờ. Hình như nhóm Cộng đồng lấy lại thái độ bất tín nhiệm ban đầu hoặc ít là lo sợ làm tổn thương sự đồng nhất trong các cộng đoàn cải tổ. Dù gì đi nữa, Gentile Spoleto, bây giờ là phụ trách ẩn viện Carceri, gửi lời xin tòa thánh bảo vệ an toàn cho các thành viên của nhóm cải tổ mới hình thành. Clement VI đáp lại bằng việc ban cho Gentile quyền tự trị, chống lại ‘sự can thiệp của các phụ trách trong dòng’. 

Sự can thiệp của giáo triều làm hoang mang AE Cộng đồng. Theo đề nghị của TTN Assisi năm 1354, vị tân TPV William Farinier, bắt đầu điều tra nhóm này. Họ đã chọn mặc áo ngắn giống như AE Hướng linh; Họ từ chối vâng lời TPV; và họ chứa chấp các người dị giáo (là những người tự nhận mình cải tổ họ). Vì thế TPV nhất quyết bãi bỏ quyết định của giáo triều bảo vệ nhóm này. Ngài quyết định giải thể nhóm này, các thành viên phải trở về các cộng đoàn ‘thông thường’ của tỉnh dòng. Gentile bị bắt ở Orvieto và bi giam tù cho đến khi gần chết vào năm 1362 (tại Brugliano, quê hương cũ của anh). Vào thời gian này Paoluccio trở lại cộng đoàn Foligno, nơi anh đã sống trước kia. 

Trở về Foligno, Paoluccio bị AE ngược đãi. Theo một câu chuyện, người chú của anh là lãnh chúa Ugolino thấy anh bị đánh đập bầm dập, đã bố trí cho Anh ngụ tại tháp canh trong vườn ông để nghỉ ngơi hồi sức. Bề trên của Anh tạm thời cho phép Anh được lưu ngụ tại đó. Sự thánh thiện của Anh, đời sống đền tội và sự trung kiên đã làm cho Anh được sự kính trọng không những nơi cư dân Foligno mà còn nơi một số AE ngày càng đông ở đây nữa.

Thủ đoạn này, không phải là trường hợp duy nhất trong lịch sử Phan sinh, giúp Paoluccio đạt được lý tưởng của mình. Lãnh chúa Foligno, chú của Paoluccino, đã giúp tiền ăn ở cho AE Umbria đến họp tu nghị tại Foligno. Ông đã quảng đại cung cấp cho AE trong suốt thời gian tu nghị, ông còn ân cần đón tiếp vị TPV như một người bạn thân thích trong buổi tiếp tân cuối cùng kết thúc tu nghị. Đáp lại lòng quảng đại của chủ nhà, vị TPV tỏ bày lòng biết ơn của toàn dòng và hứa với lãnh chúa Trinci, nếu ông có thỉnh cầu gì với dòng, chắc chắn ông sẽ được ban cho. Nhà quý tộc này đã kiên nhẫn chờ đợi giây phút này, và ngay lập tức đưa ra lời đề nghị đơn giản là cho Paoluccino, người cháu của mình, được phép cư trú trong ẩn viện tan hoang của Brugliano, vùng đất hoang vắng giáp ranh giới với vùng đất của gia đình Trinci. Vị TPV sẵn sàng ban cho một ân huệ xem ra quá khiêm tốn đối với vị mạnh thường quân hào phóng này. 

Tuy nhiên, ngay chiều hôm đó, khi nghe biết TPV đã chấp thuận lời thỉnh cầu của lãnh chúa Foligno, cộng đoàn tu viện địa phương cảnh báo vị TPV bằng cách chỉ rõ mối nguy hiểm chết ngừơi về ‘phong trào ly khai’, nếu như Paoluccio được phép thi hành dự phóng ‘tuân giữ cách nhiệm nhặt hơn’ Luật dòng. Với tinh thần trách nhiệm, TPV trở lại gặp lãnh chúa ngay ngày hôm sau, yêu cầu ông đưa ra những thỉnh cầu khác và rút lại điều đã đồng ý ngày hôm trước. Tuy nhiên về điểm này, lãnh chúa Trinci tỏ thái độ rất khác và kiên quyết. Ông buộc vị TPV, bạn ông, phải giữ lời thề hứa. 

Vị TPV đã bị mất mặt vì nỗ lực từ chối ân huệ đã tự nguyện ban cho. Bây giờ Ngài càng có nguy cơ đánh mất sự hào hiệp của một người bạn đầy quyền lực và một ân nhân có nhiều ảnh hưởng. Ngài chỉ còn cách là tái xác nhận một cách lúng túng ân huệ mà Ngài vừa tìm cách từ chối. (Những thành phần của vở kịch nhỏ này- một lãnh chúa quyền lực, một ẩn tu và một Phục vụ bất đắc dĩ- sau này sẽ được minh họa trong lịch sử việc cải tổ trong gia đình Phan sinh, trong câu chuyện mang tên là ‘AE của đời sống ẩn sĩ’ của nhóm Capuchins). 

Paoluccio ẩn dật tại Brugliano và mau chóng làm sống lại cuộc cải tổ của nhóm Tuân thủ, khởi sự từ John Valle và hầu như bị tan vỡ bởi Gentile Spoleto. 

Cùng với 4 hoặc 5 người bạn, anh chung sống tại Brugliano. Chỉ trong một thời gian ngắn tất cả những người khác quyết định bỏ loại thử nghiệm này; vì vậy, Anh lưu lại một mình trong một thời gian. Cuộc đời của Anh là một cuộc đời canh tân, cầu nguyện, sống nghèo khó, với phép của bề trên. Dần dà những thành viên mới nhiệt tâm hơn, đến với Anh, và, từ năm 1370 đến 1380, phong trào phát triển rất nhanh. Năm 1373 có 11 ẩn viện liên kết với cộng đoàn Brugliano của Paoluccio. Đức tân giáo hoàng Gregory XI đã ưu ái đối với việc cải tổ. 

Năm 1374 cả ĐGH lẫn vị TPV mới, Leonardo Giffoni, đều cổ võ phong trào cải tổ. Năm 1380, Paoluccio được vị tỉnh phục vụ và tổng phục vụ phục ban quyền để điều hành nhóm cải tổ, và mở rộng trên toàn lãnh thổ. Paoluccio và các đồ đệ, trong đó một số lớn là AE giáo dân, được gọi là ‘AE đơn sơ’ (fratres simplices, the simple brothers). Cuộc sống của họ cho thấy những yếu tố đặc trưng của phong trào đổi mới Phan sinh: tầm quan trọng của các ẩn viện, sự hiện diện của các AE giáo dân, khao khát sống nghèo đích thực. Nét hấp dẫn của lý tưởng cải tổ, được ĐGH và TPV chúc lành và chuẩn y, dẫn đến việc không ngừng gia tăng các thành viên. Vào khoảng thời gian Paoluccio qua đời năm 1391, phong trào Tuân thủ là nét đặc trưng quan trọng trong thế giới Phan sinh. 

Bên dưới những làn sóng hoạt động cải tổ Phan sinh, có một chuyển động khác đáng chú ý vào cuối thế kỷ 14. Truyền thống văn chương linh đạo Phan sinh bắt đầu mở rộng tầm ảnh hưởng, để lại dấu ấn trên đời sống thiêng liêng của người tín hữu. Hình ảnh Phanxicô được trình bày như là kiểu mẫu đáng được bắt chước, một người chỉ đường (như luật của Ngài) để sống kết hiệp với ĐK.Ý niệm về Phanxicô như một ‘Kitô khác’ (alter Christus) làm vẻ vang cho ký ức về vị thánh thành Assissi và nâng cao uy tín cho Dòng Ngài lập ra. Một cuốn sách quan trọng của thời đại này xác nhận trường hợp này một cách hùng hồn. Viết giữa năm 1385 và 1399 bởi anh Bartholomev Pisa, cuốn sách mang tên ‘ Sách về những nét đồng hình đồng dạng của thánh Phanxicô với đời sống của Chúa Giêsu’(The Book of the Conformities of the Blessed Francis with the Life of the Lord Jesus). Trong tác phẩm này, tác giả là người được đào tạo tại đại học Cambridge, sử dụng các nguồn truyện ký về cuộc đời Phanxicô để chỉ ra những cách thức trong đó cuộc đời của thánh nhân họa lại những sự kiện của cuộc đời ĐK. Tác phẩm rất thành công vào thời đó, nhưng trở thành mục tiêu cho những chỉ trích của phong trào cải tổ liên quan đến việc kính các thánh, hai thế kỷ sau. Voltaire và các nhà bách khoa thế kỷ 18 đã công kích công trình của Bartholomew, viện dẫn cuốn sách này như một minh họa điển hình cho chủ nghĩa bè phái và ngu dân tôn giáo. 

Bất chấp công kích, huy hiệu của dòng vẫn duy trì những nét đồng hình đồng dạng trong cuốn sách này:’hai bàn tay bắt chéo trên một thập giá trần trụi’, tượng trưng cho ĐK và Phanxicô. Sự cảm kích về nét đồng hình đồng dạng của Phanxicô và ĐK chịu đóng đinh, đã giúp làm tăng lên sự tưởng tượng của nhiều thế hệ văn nghệ sĩ Phan sinh muốn theo gương mẫu của Bartholomew. 

NHÓM TUÂN THỦ VÀ NHÓM VIỆN TU 

Giờ đây chúng ta lướt qua câu chuyện phức tạp về ‘Biện chứng Phan sinh’để thấy tình hình nhóm Tuân thủ trong một thế kỷ sau khi Paoluccio qua đời. Bernardine Siena, nhà thuyết giảng lừng danh và cổ động viên không mệt mỏi của nhóm Tuân thủ, vào dòng năm 1402, và cho đến khi Anh qua đời, Anh đã thiết lập 300 cộng đoàn, gồm khoảng 4000 tu sĩ Tuân thủ. Mười năm sau khi Anh qua đời, năm 1444, con số nhóm Tuân thủ lên đến 20 ngàn. Cho dù một số người xem phong trào Tuân thủ như là ‘một sự canh tân đích thực, một sự trẻ trung hóa, chứ không phải một sự đổ vỡ’ (Vorreux, tr.298), nhưng, trong thế kỷ tiếp sau sự khởi đầu khiêm tốn tại Brugliano, sự thành công của Paoluccio sẽ dẫn đến một sự chia rẽ sâu xa khác trong Dòng, giữa nhóm Tuân thủ và nhóm Viện tu. 

Danh xưng Viện tu chỉ những AE sống trong các ‘tu viện’ thành phố, và theo học những trung tâm của Dòng, và những người dấn thân cho mục vụ giáo xứ và Đại học. Họ được phép sử dụng các nhượng bộ từ các ĐGH, đặc biệt là những đặc ân trong Đoãn sắc Ad Statum ngày 23 tháng 8 năm 1430; Đoãn sắc này cho phép AE quyền sở hữu tài sản và nhận lợi tức cố định. Chính là những nhượng bộ này mà AE Tuân thủ nhất quyết từ chối. Do những khác biệt giữa 2 nhóm tăng lên, những dấu hiệu chia rẽ đầu tiên giữa 2 nhánh xuất hiện. Năm 1443, chỉ một năm sau khi Bernardine Siena mất, AE tuân thủ được quyền có một vị Phó TPV của mình cai trị. Việc xếp đặt này trong thực tế đã giúp họ thoát khỏi thẩm quyền của vị TPV của toàn dòng, được bầu chọn giữa những AE Viện tu. 

Việc dành được quyền hầu như tự trị giúp xác nhận rằng phong trào cải tổ Tuân thủ nay đã trở thành một định chế có quyền riêng, một thực thể có ảnh hưởng và sức mạnh, độc lập với những AE thường được gọi là thực thể Viện tu trong dòng. Do uy thế và con số các AE Tuân thủ tăng lên, ước muốn hoàn toàn độc lập cũng tăng lên. 

Năm 1517, ĐGH Leo X triệu tập TTN ở Ara Coeli, Rome. Đức Leo có ý cổ võ sự đồng nhất và canh tân hội dòng bằng cách thi ân cho các thành viên nhóm Tuân thủ. Ngài thực hiện mục tiêu này qua 2 bước: nối kết tất cả các phong trào cải tổ dưới sự lãnh đạo của AE Tuân thủ, và tuyên bố sự hiệp nhất của mọi AE cải tổ này, nay làm thành Hội dòng ‘được chính thức nhìn nhận’. 

Có lẽ ĐGH hy vọng rằng các tu sĩ mà không thuộc về một trong các phong trào cải tổ này, sẽ tự thích nghi mình vào trong lối sắp xếp mới mẻ này, và sẽ liên kết với AE cải tổ. Dĩ nhiên là cần có sự thay đổi về lãnh đạo, nhưng hội dòng vẫn ở dưới quyền điều hành của một vị TPV duy nhất. 

Có lẽ đây là niềm hy vọng của ĐGH. Nếu đúng như vậy, thì Ngài thật sự đã thất vọng. Tu nghị đã trở thành cuộc chiến giữa 2 nhóm lớn. Nhóm một thuộc về ‘Viện tu’, nghĩa là những AE giữ Luật dòng, và chấp nhận những tuyên bố chính thức của giáo triều về việc sở hữu tài sản chung. Nhóm hai, lớn hơn, do AE Tuân thủ đứng đầu; nhóm này cũng tuân giữ cùng một bản luật, nhưng chọn lựa không dùng đến các miễn trừ mà các văn bản tòa thánh ban cho. 

Nhìn thoáng qua, đây là vấn đề nghèo khó. Nhưng vấn đề sâu hơn, đó chính là việc cải tổ.(Chúng ta phải nhớ rằng trong cũng năm này Luther đệ trình những cải tổ của mình tại Wittenberg). 

Kết quả của tu nghị đánh dấu một bước mới trong sự ‘vấp phạm’ của lịch sử Phan sinh. Với sắc chỉ Ite vos được ban tại tu nghị năm 1517, Đức Leo thừa nhận về mặt giáo luật sự phân chia đã có trong thực tế. Hội dòng chia thành dòng AEHM và dòng AEHM Viện tu. AEHM Viện tu có được một Tổng giám (Master General- như bên Đa minh), lệ thuộc vào sự phê chuẩn của TPV dòng AEHM, tức là nhóm Tuân thủ và các AE cải tổ liên kết lại. Chuyển biến này rõ ràng là một lăng mạ đối với nhóm này và là một chiến thắng đối với nhóm trên kia. 

Cho dù người ta nhìn nhận sự khôn ngoan hoặc sự cần thiết trong quyết định của Đức Leo, chúng ta vẫn phải nhìn nhận trong biến cố 1517 một ngày buồn trong lịch sử của gia đình Phan sinh; và một trong những hậu quả là phê chuẩn những phân chia khác giữa AE, và giữa các CENK cũng như các AESĐĐT liên kết với họ. 

AE Viện tu, sau quyết định nhục nhã này, chẳng mấy chốc lấy lại tước hiệu TPV, và thoát khỏi mọi lệ thuộc đối với nhóm Tuân thủ. Trong thực tế hiện có 2 dòng AEHM, với 2 TPV, và 2 pháp chế riêng: 2 dòng cùng giữ một luật, dưới sự linh hứng của cùng một vị sáng lập, sống và làm việc trên cùng một lãnh thổ, và thực tế nhánh này phá hủy tính khả tín và hiệu năng của nhánh kia. 

Đức Leo đã muốn kêu gọi sự đồng nhất bên cạnh việc cải tổ, và hướng dẫn những nhóm- cải- tổ- mới- liên- kết, được tổ chức lại dưới sự che chở của AE Tuân thủ, Ngài phổ biến một pháp chế buộc mọi tu sĩ phải tuân giữ. Nhưng một chia rẽ mới lại xuất hiện: AE ‘bên kia núi Alps’ (Ultramontanes) do AE Pháp và Tây Ban Nha điều khiển, và AE ‘bên này núi Alps’ (cismontanes) do AE Ý điều khiển, không thể đồng ý trên một pháp chế đồng nhất. Sự khác biệt là do đặc tính quốc gia. AE Tây Ban Nha điều hành nhóm Ultramontanes, vì quốc gia của họ hưởng được quyền tối cao trên toàn Âu châu. AE Pháp cố gắng, mặc dầu không thành công, bẻ gảy quyền kiểm soát của người Tây Ban Nha trên đời sống của dòng tại Âu châu ‘bên kia núi Alps’. 

Hội dòng chấp nhận các phân chia quốc gia này bằng cách đặt ra pháp chế: Vị TPV, được bầu chọn 6 năm một lần, phải luân phiên Ultramontane và Cismontane. Hơn nữa, khi TPV là Ultramontane, AE Cismontane sẽ được hướng dẫn bởi một Tổng Ủy của riêng mình (General Commissary), và ngược lại. Trong thực tế điều này có nghĩa là: một TPV người Ý với một Phó TPV người Tây Ban Nha; và kế tiếp là một TPV người Tây Ban Nha với một Phó TPV người Ý. 

Hai gia đình ‘theo địa dư’ như vậy, ngoài một sự tự trị tương đối, cũng đã phát triển các pháp chế khác nhau. AE Cismontane năm 1700 đã có tất cả là 12 tổng hiến chương, AE Ultramontane có 3 tổng hiến chương. Các tỉnh dòng bắt đầu đề ra ‘Quy chế’ riêng của mình, và, trong khi tìm cách bảo đảm tính bền vững nhờ những phương tiện này; các tỉnh dòng lại làm gia tăng các khó khăn cho việc thiết lập một cơ chế chung cho toàn dòng. 

AE Tuân thủ phát triển mạnh trong thế kỷ 17, đến nỗi con số AE Tuân thủ (Regular Observance : nhóm chính) lên đến 34.900 tu sĩ; nhiều nhóm liên kết nhỏ hơn (sẽ được giải thích sau này) cũng có tới 28.500 tu sĩ; tổng cộng là 63.400 tu sĩ vào đầu thế kỷ 18.

NHÓM ẨN VIỆN (Retiros)

Nhiều vấn đề cải tổ khác âm ỉ bên dưới biến cố đau thương năm 1517. Đó là điều Lazaro Iriarte gọi là ‘sự cám dỗ muôn thưở về cuộc sống ẩn dật’, luôn dấy lên và luôn đưa đến những cuộc cải tổ Phan sinh. Đó là vấn đề tạo ra những phân chia mới trong hội dòng, vốn đã được các quyết định của Đức Leo muốn ‘liên kết’ lại. 

Hậu cảnh của câu chuyện này đưa chúng ta từ Ý đến Tây Ban Nha. Một AE Tây ban nha tên là Juan de la Puebla (mất năm 1495) đã sống tại ẩn viện Carceri gần Assisi trong nhiều năm. Khi trở về Tây ban nha, Anh thành lập nhiều ẩn viện ở Extramadura, miền của những kẻ đi xâm lược và những kẻ phiêu lưu, và là chốn của những người cải tổ nhiệt tình.

Năm 1487, Juan được phép của ĐGH thành lập một hạt dòng (custody, một thực thể bán tự trị trong một tỉnh dòng), tận hiến cho Đức Bà các Thiên thần. Vì số AE ẩn viện tăng lên, các lãnh đạo Tuân thủ bắt đầu nghi ngờ và cố cầm giữ các cộng đoàn chiêm niệm đang lên này trong cơ cấu của AE Tuân thủ. 

Juan de Guadalupe (mất năm 1506), một đồ đệ của phong trào ẩn sĩ, gặp bất đồng với quyền lãnh đạo của AE Tuân thủ. Anh muốn chuyển từ Tuân thủ đến ‘Tuân thủ nhiệm nhặt hơn’. Điều này cho thấy cuộc cải tổ Tuân thủ đã trở thành một định chế cần phải cải tổ lại nữa. Năm 1496 Anh nhận được phép của ĐGH lui về ở ẩn với một nhóm bạn bè tại ẩn viện gần Granada, để có thể ‘tuân thủ Phúc âm và luật dòng trong sự nghèo khó hoàn toàn, mặc y phục giống như y phục của thánh Phanxicô’, dưới quyền của TPV mà thôi (nghĩa là không lệ thuộc vào quyền lãnh đạo của AE Tuân thủ). 

Các thành viên của nhóm cải tổ này nhấn mạnh đến việc mặc y phục giống như Phanxicô và AE tiên khởi, một vấn nạn đã từng khơi lên trong trí tưởng tượng của AE Hướng linh. Đối vơi Juan, đó là một chiếc áo ngắn hơn cái hiện dùng, với một cái lúp hình nón, và một áo choàng ngắn, tất cả đều được vá cả trong lẫn ngoài bằng các vật liệu đủ màu sắc. Hơn nữa họ nhấn mạnh AE phải đi chân không, không được mang cả sandal. Do lối sống này, họ mang tên là ‘AE chân không’ ( shoeless, discalced). Họ cũng được gọi là ‘AE Guadalupe (Guadalupenses), đặc biệt là ở Tây ban nha, và là ‘AE lúp dài’ (Capuchos, hood friars). Những năm tiếp sau khi thành lập, AE Chân không gặp nhiều vấn đề về tổ chức. AE Tuân thủ nhận được quyền giáo hoàng là nhóm cải tổ mới phải ở dưới quyền của các vị bề trên của nhóm Tuân thủ (1502); Nhóm Chân không đã làm thay đổi quyết định này (1506); họ nhận được quyền thành lập một Hạt dòng độc lập dưới quyền của nhánh Viện tu (1506); và nhóm Tuân thủ nhận được quyền mới của giáo triều, đòi hỏi AE Cải tổ hoặc là trở về với nhóm Tuẩn thủ hoặc rời bỏ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha (cũng 1506). Nhóm Chân không đạt được một chiến thắng mới khi họ nhận được phép thành lập một tỉnh dòng độc lập (1508). 

Với sắc chỉ hiệp nhất, Đức Leo sát nhập nhóm Chân không vào nhóm Tuân thủ năm 1517, trong khi vẫn cho phép họ có 2 tỉnh dòng riêng, một ở Tây ban nha (Extremadura), và một ở Bồ đào nha. Không phải mọi AE Chân không đều hài lòng với giải pháp này. Một trong các thành viên, Juan Pascal, cũng chính trong năm đầy biến động về việc tái tổ chức này, đã xin phép vị Tổng giám nhóm Viện tu mới được bầu chọn, khai sinh một nhóm ‘AE Viện tu Cải tổ’(Reformed Conventual Friars). Phong trào được chấp thuận và bắt đầu phát triển, họ nhận được phép đặc biệt của Giáo triều chấp nhận họ vào nhóm Tuân thủ Cải tổ và thành viên của các hội dòng “Tuân thủ ôn hòa”. 

Danh tiếng nổi bật nhất của nhóm Chân không Tây Ban Nha đến từ Peter Alcantara (mất 1562). Sau khi kết thúc nhiệm kỳ tỉnh phục vụ trong gia đình Tuân thủ, Peter quyết định lui về sống đời đền tội chiêm niệm và đơn độc. Khi các bề trên nhóm Tuân thủ chống lại quyết định này, Peter nhận được phép của Giáo triều chuyển sang nhóm AE Viện tu; vị Tổng giám nhóm này chọn Anh làm Tổng ủy (General Commissary) của nhóm Viện tu Cải tổ. Thiết lập một ẩn viện với quy chế riêng, Peter sắp xếp lại các tu viện của phong trào Cải tổ vào trong một Hạt dòng, và sau này trở thành một Tỉnh Dòng (San Jose) năm 1559, dưới quyền vị Tổng giám Viện tu. Năm 1563, sau khi Peter qua đời, những AE Cải tổ được đặt dưới quyền của Bề trên cả nhóm Tuân thủ (Observant General), cho dù vẫn giữ quy chế và áo dòng riêng của họ. Tất cả đều được gọi bằng từ chung ‘AE Chân không’(Discalced Friars), và sau khi Peter chết, là ‘AE Alcantara’(Alcantarines). 

Vì phong trào phát triển lan qua Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đến Ý, Mỹ Châu và Á Châu (họ còn đảm nhận trách nhiệm truyền giáo tại Philippin), AE Chân không càng nhận được một quyền tự trị lớn hơn, nhưng không bao giờ trở thành một dòng hoàn toàn độc lập. Được hướng dẫn nhờ Hiến chương riêng hơn là nhờ Tổng hiến chương, họ chỉ vâng phục Tổng phục vụ nhóm Tuân thủ; mỗi Tỉnh dòng vẫn duy trì một đại diện nơi nhà Trung ương St. Isidore tại Rome. Năm 1700 AE Chân không lên đến 4600 tu sĩ.

ANH EM CẢI TỔ (The Reformed)

Năm 1502 vị Phó bề trên cả AE Tuân thủ, Martial Boulier, quyết định rằng tất cả các Tỉnh dòng Tây Ban Nha phải có nhà tỉnh tâm, và sau này khắp cả nước đều có nhà tỉnh tâm. Phong trào Ẩn viện lan tràn khắp nước Ý khởi đầu từ năm 1518 nhờ sự cổ vỏ của vị Bề trên cả, Francesco Lichetto. Dầu vậy, sau khi Anh mất, nó vẫn gặp sự chống đối của Paolo da Soncino, người kế vị Anh. 

Một trong những đồ đệ của Juan de la Puebla, Francesico Quinones được bầu chọn làm Tổng Phục vụ năm 1523 đã cố gắng cổ võ cho phong trào này phát triển một cách rộng rãi trong Dòng. Trong suốt thời gian làm nhiệm vụ, phong trào này còn được củng cố trong dòng. Năm 1525, Anh đến Ý, quyết tâm bảo vệ các nhà tỉnh tâm bằng cách đề ra các quy chế tương tự các quy chế của AE Ẩn viện Tây Ban Nha. 

Người kế vị, Paolo Pisotti, quốc tịch Ý, hoàn toàn chống lại phong trào này. Chán ghét việc điều hành tàn bạo và tùy tiện của Anh, ĐGH Clement VII đã truất phế Anh trước nhiệm kỳ. 

Sự chống đối phong trào Ẩn viện của các bề trên người Ý trên hơn 15 năm dẫn đến việc thành lập hai nhóm Cải tổ, và về sau hai nhóm này càng phát triển độc lập hơn: đó là nhóm “AE sống ẩn dật” (Friars of the Eremiticial Life, Capuchins) và nhóm “AE hèn mọn cải tổ” (Reformed Friars Minor, Riformati). Nhiều anh em lãnh đạo các nhà tỉnh tâm bên Ý gia nhập hai nhóm này. 

Sau khi truất phế Pisotti, Đức Clement VII bảo vệ các nhà tỉnh tâm. Ngài ra lệnh mỗi tỉnh dòng phải có các nhà trong đó anh em có thể nghiêm nhặt tuân giữ luật, có thể mặc áo dòng thô sơ và đi chân không. AE thuộc các Hạt dòng Cải tổ này được biết đến như là AE Cải tổ (Riformati). Các nhà của họ được liên kết thành một Hạt dòng trong mỗi Tỉnh dòng, và bề trên của họ đại diện cho họ tại tu nghị Tỉnh dòng. 

Cho dầu có được những pháp chế thích hợp, nhóm Riformati ban đầu không phát triển mấy ngoại trừ miền Bắc Ý. Từ địa bàn này nhóm dần dần có thêm các đồ đệ ở Đức và Austria. 

Các bề trên Ý đã chuyển từ sự phản đối sang nâng đỡ nhóm năm 1535, khi Tổng tu nghị tín nhiệm các nhà tĩnh tâm. Sự thay đổi thái độ này giúp nhóm phát triển, mà vẫn giữ họ ở lại trong dòng và trong Tỉnh dòng. 

Vì số các AE Riformati tăng lên trong suốt thời gian 15 năm kế tiếp, cho nên họ ao ước một sự độc lập lớn hơn. Giống AE Chân không ở Tây Ban Nha, AE cải tổ ở Ý được thoát khỏi quyền lãnh đạo của các Bề trên Tuân thủ trên bình diện Tỉnh dòng năm 1579, và chỉ lệ thuộc vào Tổng phục vụ. Các bề trên của họ có thể chấp nhận bất cứ AE Tuân thủ nào mà không cần hỏi ý kiến vị Tỉnh phục vụ Tuân thủ, và có thể xin có các nhà riêng từ vị Tỉnh phục vụ. Một khi đã “ Cải tổ ”, AE không được trở lại nhóm Tuân thủ nữa. Những quyền hành to lớn này được trao ban cho AE Cải tổ, làm cho các Bề trên nhóm Tuân thủ lo âu. 

Vị Tổng phục vụ, Francesco Gonzaga đã thành công trong việc xin ĐGH rút lại quyết định của Ngài trong vòng một năm. Vị TPV cũng khuyến khích các Tỉnh phục vụ Tuân thủ đối xử tử tế với các AE Cải tổ, và trong một thập niên tiếp theo, Anh đã làm việc tận tình loại trừ các nguyên nhân tạo ra sự bất mãn trong nội bộ AE Tuân thủ, bằng cách ban hành những quy chế đặc biệt liên quan tới các AE Cải tổ vào năm 1582. 

Nhờ sự can thiệp của Đức Clement VIII năm 1596, AE Cải tổ nhận được sự độc lập hoàn toàn từ các Tỉnh Phục vụ Tuân thủ. Giờ đây họ được chính các Bề trên của mình lãnh đạo, dầu vẫn còn nhìn nhận quyền bính của Tổng phục vụ Tuân thủ. 

Vị Tổng phục vụ lúc bấy giờ là Bonaventura da Caltagirone cố gắng, dù bất thành, giữ cho hội Dòng khỏi chia rẽ bằng cách tạo ra sự phản kháng pháp lý lúc ban đầu,nhưng sau đó nhượng bộ để thiết lập các Tỉnh dòng cải tổ tự trị, và cuối cùng khuyến khích một “cuộc chiến bằng truyền đơn” chống lại AE cải tổ. Ngay cả Tổng tu nghị năm 1600 đã cố gắng đưa ra một giải pháp êm đẹp cho tất cả, nhưng cũng đã không thành công. 

AE Cải tổ chẳng bao lâu nhận được sự phê chuẩn của Giáo triều để có được vị Phó tổng phục vụ và Tổng tu nghị. Cho đến giờ phút này, lòng trung thành của họ đối với thẩm quyền của Tổng phục vụ Tuân thủ chỉ là trên giấy tờ. Một khi đã được sự tự trị về tổ chức, AE Cải tổ mau chóng phát triển phong trào của mình. Tại trung tâm Âu Châu, sự bành trướng của phong trào rất đáng kể: năm 1623, hai Hạt dòng được thành lập ở Ba Lan song song với các Tỉnh dòng Tuân thủ. Nhiều Tỉnh dòng chuyển đổi sự liên kết từ nhóm Tuân thủ sang nhóm Cải tổ: Bavaria năm 1625; Tyrol năm 1628; Austria năm 1632; Bohemia năm 1660; Croatia năm 1688. Một sự thỏa hiệp về lãnh đạo kéo dài cho đến năm 1639: trong lúc Tổng phục vụ Tuân thủ được nhìn nhận như nắm trọn quyền trên nhóm Cải tổ, Ngài phải điều hành theo những quy chế đặc biệt, và phải luôn luôn chọn vị Phó tổng phục vụ của dòng từ giữa nhóm Cải tổ.

NHÓM TỈNH NIỆM (Recollects)

 Phong trào hướng về các nhà tĩnh tâm nở rộ ở Tây Ban Nha dưới danh hiệu của AE Chân không, và ở Ý cũng như ở trung tâm Âu Châu dưới danh hiệu của AE Cải tổ. Tại Pháp, Đức và các Low Countries, lý tưởng chiêm niệm được một nhóm tên là “ nhóm Tỉnh niệm” (Recollects) thực hiện. 

Tại Pháp các nhà tĩnh tâm ban đầu phát triển một cách chậm chạp – chiến tranh tôn giáo thập niêm 1500 cản trở công việc cấp bách cải tổ trong các Tỉnh dòng của AE Tuân thủ. Tại một Tổng tu nghị ở Paris (1579) vị TPV Francesco Gonzaga thúc giục thành lập các nhà tĩnh tâm, nhưng kết quả không bao nhiêu. Ngài quan tâm đặc biệt đến một nhóm AE đã gia nhập phong trào Cải tổ Capuchin trong việc họ tìm kiếm một lối sống hướng về ẩn dật nhiều hơn; nhóm này sau này trở lại với AE Tuân thủ. Ngài cho phép họ quy tụ các nhà này thành một Hạt dòng. Noi gương AE Cải tổ, AE Chân không và AE Capuchin, họ đã chọn cho mình bộ áo nghèo khó với một cái lúp nhỏ, coi đây như là tu phục nguyên thủy của AE lúc ban đầu. Dưới áp lực của Đức Clement VIII nhằm giải quyết vấn đề các phong trào Cải tổ, TPV Bonaventura da Caltagirone, ban cho các nhà Tĩnh tâm ở Pháp và Bỉ có được quy chế đầu tiên năm 1597, trong lúc vẫn duy trì họ ở dưới thẩm quyền của các Bề trên Tuân thủ. 

Nhờ sự ủng hộ của hoàng đế, và được hưởng một uy thế xã hội to lớn giữa tất cả các tầng lớp xã hội, các nhà Tĩnh tâm lan tràn khắp nước Pháp vào đầu thập niêm 1600; và những AE liên kết với họ được xem như là nhóm “Tỉnh niệm”. Họ thay đổi kiểu áo bằng cách sử dụng một cái lúp giống như một kim tự tháp lộn ngược, nhưng lối sống của họ hoàn toàn giống với những nhóm Cải tổ khác thời đó, như là AE Chân không, AE Cải tổ và AE Capuchins. 

 Đầu thập niên 1600 một Tỉnh dòng “Tỉnh niệm” được thành lập tại Flanders. Năm 1621 AE Đức ở Cologne chấp nhận chương trình “Tỉnh niệm” cho tất cả các nhà của họ, và năm 1646 tự tuyên bố cách chính thức mình là AE “Tỉnh niệm”. Năm 1670 AE miền Nam nước Đức mặc theo tu phục này, và khoảng năm 1682 tất cả các tỉnh dòng ở Đức và ở Flanders đã trở thành “ AE Tỉnh niệm”. Vào khoảng cuối thế kỷ 17, AE Tỉnh niệm có 450 nhà với con số trên dưới 10.000 tu sĩ.

Anh Em Capuchin

Quyết định của Đức Leo X năm 1517, tách biệt nhóm Tuân thủ và nhóm Viện tu, đã nhìn nhận uy thế của phong trào cải tổ đang trở thành một định chế, trong đó một làn sóng cải tổ mới đang lớn dần. Năm 1525 làn sóng này bùng phát do cuộc chiến đấu của một AE từ tu viện ở Montefalcone, thuộc Tỉnh dòng Marches trong miền quê ở Trung Bắc bờ biển Adriactic nước Ý. Một tu sĩ trẻ, giáo sĩ, nhưng với lối giáo dục đặc biệt, Matteo da Basci, ao ước cổ võ việc cải tổ lối sống Phan sinh: tuân giữ Luật dòng sát chữ, và đón nhận kiểu áo giống kiểu áo của thánh Phanxicô- với một cái lúp hình nón nối liền với áo dòng ( giống như áo dòng mà AE Chân không đã dùng tại Tây Ban Nha). 

Không thông báo cho bề trên của mình, vì Anh nghĩ rằng Anh có thể không được chấp thuận, Anh trốn sang Rome và nhận được sự phê chuẩn của Đức Clement VII bằng miệng về dự phóng của mình. Sau này bị vị Tỉnh phục vụ bỏ tù vì tội “ đào tẩu và lang thang”. Anh được thả ra nhờ sự can thiệp của nhà bảo trợ đầy quyền năng, công tước Catherine Cybo thành Camerino, cháu của ĐGH. 

Chẳng bao lâu, nhiều người khác đi theo Matteo trong việc tìm kiếm canh tân đời sống. Hai em ruột, Ludovico và Raffaele cư trú tại cộng đoàn Fossombrone, trong Tỉnh dòng Marches. Thao thức sống đời sống cải tổ, Ludovico trình bày với vị phục vụ mình trong một cuộc gặp gỡ tại đây năm 1526. Anh xin phép được lui về một ngôi nhà nhỏ, tại đó Anh và nhiều anh em khác sống một cuộc sống cải tổ ẩn dật: nói cách khác Anh muốn theo gương Matteo. Vị phục vụ Giovanni da Fano đáp lại lời thỉnh cầu của Anh bằng cách giam giữ Anh trong một phòng của cộng đoàn. Ngày hôm sau Ludovico bỏ đi ( hoặc được giải thoát hoặc trốn đi), và đến với Matteo ở Montefeltro. Matteo cho biết rằng mình không có quyền đón nhận người khác vào lối sống này: chỉ ĐGH mới có thể hành động như vậy thôi. Ludovico nhận được thư giới thiệu của Công tước Catherine, vị ân nhân của Matteo, và tìm đường đến gặp ĐGH tại Rome. Tại đây, Anh nhận được giấy tờ cần thiết của ĐGH cho phép Anh và Anh Raffale được lui về cư ngụ trong ẩn viện gần Cingoli để sống như các ẩn sĩ. 

Anh Giovanni, Tỉnh phục vụ, nhiệt thành nhưng thiếu khôn ngoan, tìm cách ngăn cản sự chia rẽ trong dòng, nên đã quyết định bắt những anh em nổi loạn này. Tuy không thành công tại Rome trong việc xin ĐGH hủy bỏ phép đã ban cho Ludovico, Ngài vẫn được phép của ĐHY tòa cáo giải tối cao để “bắt giam bất cứ tu sĩ nào bội giáo đi lang thang ngoài Tỉnh dòng, cố tình chống đối lại”. Theo lệnh Giovanni, một nhóm binh lính và tu sĩ đã tấn công ẩn viện Cingoli. 

Ludovico vốn là một binh lính trước khi gia nhập Dòng và bây giờ Anh có cơ hội sử dụng chuyên môn quân sự của mình. Được một nông dân địa phương thông báo có một nhóm quân đội đến, Ludovico, người anh em và người báo tin, đã thành công trong việc phòng thủ. Chạy lui chạy tới trong nhà để ra vẻ như có nhiều người, khua xích và các loại bình bằng kim loại, hò hét ra lệnh hãy bảo vệ ngôi nhà chống lại kẻ đột nhập; họ đã tay không làm nhóm quân đội hoảng sợ bỏ chạy. 

Hai anh em rời bỏ nơi cư trú tạm thời ở Cingoli ngay đêm ấy, tìm đến nơi ẩn trú với các tu sĩ Camandolese gần Massaccio. Không chịu thua, vị phục vụ sai một đám quân khác đi bắt họ tại đây. Lần này Ludovico chấp nhận quy hàng; nhưng chỉ với sự hiện diện của đặc phái viên giáo hoàng ở Macerata. Một lần nữa, ở đây, Ludovico đưa ra giấy phép vẫn còn hiệu lực của Giáo hoàng ban cho Anh; và vị đặc phái viên cho phép Anh trở lại nhà với các tu sĩ Camandolese. Tu viện trưởng ở đó đề nghị Ludovico đến ẩn viện Pascilupo ở Alnacina, và viết một lá thư giới thiệu Anh cho cộng đoàn tu viện kề bên. 

Một lần nữa Ludivico và Raffaele bỏ đi, nhưng khi vừa ổn định tại Albacina, thì vị phục vụ sai 14 anh em vũ trang tới bắt. Được một đan sĩ sống gần đó thông báo, anh em châm một đống lửa lớn trước ẩn viện, đốt đuốc ở mỗi cửa sổ và đặt tín hiệu coi chừng lửa cháy trên tảng đá lớn nhằm ngăn chặn lối vào. Với những hiệu lệnh văn vẵn từ khắp các ngõ ngách ẩn viện phát ra, đám quân sợ hãi bỏ chạy. 

Hai nhà cải tổ lại ra đi, lần này đến một nhà thuộc gia đình của họ gần Fossombrone. Ở đây Basci đến viếng thăm họ cùng với Paulo da Chiozza, một anh em khác, người này cũng đã nhận được phép của ĐGH để sống với họ. Khi họ đang ngồi ăn trưa thì 12 binh lính cùng với 2 tu sĩ tiến đến nhà họ. Ludovico đặt chướng ngại vật ở cửa ra vào, và 2 anh em cùng với các vị khách vừa chạy vừa la hét qua các cửa sổ với những chiếc nón khác nhau. Một lần nữa quân đội lại rút lui. 

Bốn anh em quyết định phải giải quyết vấn đề với vị phục vụ Giovanni; họ muốn đặt mình ra khỏi thẩm quyền của anh phục vụ bằng cách xin anh em Viện tu chấp nhận mình. Sau khi hội ý với ông bà công tước ở Camerino, họ được đưa tới vị Giám mục địa phương; vị Giám mục này đồng tình với quyết định khôn ngoan của họ. Tỉnh phục vụ Viện tu đồng ý và Bề trên cả Viện tu phê chuẩn dự án này. Cuối cùng ĐGH phê chuẩn dự án với sắc chỉ Religonis zelus (3/7/1528). 

Bốn AE thành lập một tu viện gần Camerino và nhanh chóng đón nhận những AE Tuân thủ khác đến với cộng đoàn. Tháng 4 năm 1529 họ có được bốn tu viện và cử hành tu nghị đầu tiên tại Albacina. 12 thành viên tu nghị đề ra hiến pháp và bầu chọn Matteo làm Phó Bề trên cả, dưới sự vâng phục của tổng phục vụ AE Viện tu. Một nhóm khác với những khuynh hướng tương tự , sống ở Calabria cũng đến theo họ vào mừa hè năm đó. 

Đó là sự khai sinh của AE thuộc đời sống Ẩn viện. Nhóm này năm 1532 được chính thức công nhận với biệt hiệu những “AE lúp dài” (Capuchins). Về danh nghĩa họ vẫn là thành phần của AE Viện tu cho đến năm 1619. Lúc đó họ hoàn toàn độc lập với 1 vị Tổng phục vụ của riêng họ.

Với sự độc lập của AE Capuchin, giờ đây, Dòng Nhất, Dòng AEHM mặc lấy một hình thức định chế mới, tồn tại cho đến ngày nay: một Dòng trong ba nhánh: Dòng AEHM Viện tu, Dòng AEHM (Tuân thủ), và Dòng AEHM Capuchin. Mỗi nhánh vẽ lại lịch sử của mình từ những ngày sơ khai của HĐĐ; và mỗi nhánh,theo cách thức riêng của mình, trình bày cho thấy kết quả của những cuộc tranh đấu cải tổ dai dẳng và phân chia; làm nên tính cách đặc biệt của Dòng AEHM từ thuở ban đầu.

👉 (đọc tiếp các chương tiếp theo tại đây)

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.