DÒNG CHỊ EM NGHÈO KHÓ: TĂNG TRƯỞNG VÀ CẢI TỔ

ANH CHỊ EM PHAN SINH
Tác giả: Tu sĩ William J. Short, OFM
Chuyển ngữ: Tu sĩ Irênê Nguyễn Thanh Minh, OFM
Chương III: DÒNG CHỊ EM NGHÈO KHÓ: TĂNG TRƯỞNG VÀ CẢI TỔ
Colette Corbie và công cuộc cải tổ
NHỮNG CẢI TỔ MỚI Ở TÂY BAN NHA VÀ Ý
MỞ RỘNG RA BÊN NGOÀI CHÂU ÂU
CHỊ EM NGHÈO KHÓ VÀ ANH EM HÈN MỌN
NHỮNG CẢI TỔ TRONG THẾ KỶ 17
CÁC CHỊ EM NGHÈO KHÓ VÀO THẾ KỶ 18
PHÁT TRIỂN VÀ BÁCH HẠI TRONG THẾ KỶ 19
THẾ KỶ 20
Chương III: DÒNG CHỊ EM NGHÈO KHÓ: TĂNG TRƯỞNG VÀ CẢI TỔ
AEHM đã trải qua kinh nghiệm về phát triển và cải tổ trong suốt lịch sử của mình. Nay đến lúc chúng ta xem xét các hiện tượng này nơi cuộc sống của CENK, là gia đình thánh Clara.
Clara sống ở San Đamiano trong suốt 43 năm, cho đến lúc qua đời năm 1253. CE đã bỏ ngôi nhà nguyên thủy năm 1260, chuyển sang một địa điểm mới, nơi mà ngày nay người ta gọi là Proto-Monastery, gắn liền với Vương cung Thánh đường thánh Clara. Như là một nhắc nhớ về ngôi nhà đầu tiên, chị em mang theo Thánh giá Đamiano, cũng là một nhắc nhớ về kinh nghiệm của thánh Phanxicô, đấng đã nghe tiếng nói từ Thánh giá ra lệnh hãy sửa lại nhà thờ của Đức Kitô, khi Ngài đang cầu nguyện.
Giống như các AEHM, CENK trải qua giai đoạn vàng son trong 50 năm đầu tiên từ khi thành lập Dòng. Vào thời gian Bonaventura qua đời, năm 1274, chị em bước vào một giai đoạn thoái hóa.
Trong thế kỷ tiếp theo, các vấn đề xoay quanh việc miễn chuẩn khỏi đức nghèo khó nhiệm nhặt, sự xuất hiện lối sống xa hoa và một sự dễ dãi trong thực hành nội vi. Đối với nhiều Cộng đoàn tuân theo luật do Đức Uban IV ban hành, tu viện có thể sở hữu tài sản riêng; và đã có một số tu sĩ đã nhận lương bổng, điều mà Luật dòng cấm nhặt. Trong lúc các vấn đề liên quan đến đức nghèo khó tăng lên, một số các bà quý phái xin gia nhập vào nhóm được gọi là “Dòng thánh Clara”. Có một vài tài liệu cho thấy những đan viện riêng rẻ này còn buộc các ứng viên phải thuộc giai cấp quý tộc nữa. Tai tiếng này tăng lên do các tu sĩ ngày càng nhận phép ra khỏi tu viện trong những khoảng thời gian hoặc ngắn hoặc dài, và một số “quý bà thanh bần” còn đến sống tại các cung điện vua chúa Châu Âu như “những nhà chiêm niệm tại chỗ”.
CENK chẳng bao lâu trải qua cuộc cải tổ năng động vào thế kỷ XV giống như trường hợp của AEHM. Họ khát khao một “sự tuân thủ nghiêm nhặt hơn” về luật dòng. Thường thì việc canh tân trong các đan viện nữ diễn ra song song với các phong trào tương tự trong dòng AEHM. Vào thập niên 1400, sự Cải tổ Tuân thủ nơi AEHM ở Ý bắt đầu gây ảnh hưởng lên các cộng đoàn nữ. Các vị lãnh đạo AE Tuân thủ, Bernadine Siena, Bernadine Feltre và John Capistan ban đầu không nhiệt tình với chương trình cải tổ của chị em; nhưng dưới sức ép của Tòa thánh, họ bắt đầu quảng bá tư tưởng của mình trong các đan viện. Các đan viện Santa Lucia (Foligno), Sant Orsola (Milan), Corpus Domini (Mantova) và tu viện Ferrara trở thành những trung tâm cho việc “Tuân giữ nhặt nhiệm hơn” giữa các CEKN ở Ý.
Colette Corbie và công cuộc cải tổ
Ở Pháp, một cuộc cải tổ còn ý nghĩa hơn bẳt đầu từ giữa CENK. Vị lãnh đạo, Nicolette (Colete) Boellet thành Corbie, sinh năm 1381, là con của một người thợ mộc ở vùng Picardy. Năm 1406 Colette được Đức Benedict XIII cho phép đảm nhận việc cải tổ cả Ba Dòng Phan Sinh. Cuộc cải tổ này tác động mạnh nhất nơi dòng thánh Clara. Dù không thành công khi cố gắng cải tổ đan viện Corbie nơi quê hương của mình, chị cũng thành công năm 1410 với việc cải tổ đan viện ở Besancon. Hơn ba thập kỷ kế tiếp, Chị lập 16 cộng đoàn cải tổ ở đây. Chị em đôi lúc gọi đây là “ sự hoang dã ở Le Puy”, lý do là vì sự nhiệm nhặt trong việc từ chối dứt khoát quyền sở hữu của cải, cho dù cá nhân hay tập thể, vì đề cao đời sống nội vi xít xao, và vì loại trừ mọi liên lạc với đời sống thế tục.
Là người lãnh đạo thông minh và quyết đoán, Colette thường nhận được những gì mà Chị thỉnh cầu với ĐGH, vua chúa, hoàng tử và các giáo sĩ cao cấp. Việc chu đáo giám sát công trình xây dựng tu viện cho chị em tại Auxonne khiến chị trở thành một nhà xây dựng chuyên nghiệp, Chị đã học được nghề thủ công từ người cha là thợ mộc. Chị di chuyển dễ dàng qua các vùng đất tranh chấp đẫm máu của “trận chiến trăm năm”. Các nhóm lính đánh thuê lang thang trong nước Pháp hết lòng kính trọng vị Viện mẫu thành Besancon đáng kính này. Hoạt động của chị đi đôi với hoạt động của Joan of Arc. Truyền thuyết nói rằng khi đi qua vùng Domremy, quê hương của nữ anh hùng người Pháp, chị đã chúc lành cho hài nhi Joan.
Hoạt động của Colette vượt ra khỏi phạm vi dòng thánh Clara và lan rộng đến cả những cộng đoàn dòng AEHM. John Capistran mời Colette kết nối với phong trào Tuân thủ mà Anh cổ võ rất mạnh mẽ giữa anh em mình. Colette ưa thích liên kết với anh em Viện tu, và chị đã thực sự làm nên một cuộc cải tổ giữa anh em, nên được gọi là “Anh em Colettan” (Colettan friars). Năm 1517, Đức Leo X ra sắc chỉ chia đôi Dòng Nhất, các đồ đệ của Colette liên kết với nhóm Tuân thủ. Vào cuối thế kỷ 15 “chị em Colettin” đã có nhiều cộng đoàn trong những thành phố chính nước Pháp. Cùng lúc đó, một số tu viện mới xuất hiện ở Bỉ và Anh. Chẳng bao lâu họ còn thiết lập một số đan viện khác ở Châu Mỹ.
NHỮNG CẢI TỔ MỚI Ở TÂY BAN NHA VÀ Ý
Năm 1480, một nhánh mới của gia đình Phan Sinh xuất hiện tại Tây Ban Nha, do Beatrice de Silva, người sáng lập nhóm “các nữ tu Đức Mẹ Vô Nhiễm” (the Nuns of the Conception of the Blessed Virgin Mary). Mặc dầu nguyên thủy là sống theo luật dòng Xitô, Chị Em Conceptionistes, năm 1520, cũng nhận được đặc ân của Tòa thánh đã ban cho dòng AEHM và dòng CENK. Trong thực tế một số tu sĩ đã chấp nhận luật của thánh Clara nhờ sự điều hành của vị HY Phan Sinh Francisco Ximenes.
Tại Ý một cuộc cải tổ liên kết với cuộc cải tổ của AE Tuân thủ bắt nguồn từ các CENK. Catarina de’Vigri, thuộc gia đình quý tộc Ferrara, gia nhập cộng đoàn nữ của dòng Ba Tại viện tại thành phố quê hương mình, lúc 14 tuổi. Tu viện này giống như nhiều tu viện khác ở Ý và nhiều nơi khác, dưới ảnh hưởng của AE Tuân thủ, chấp nhận luật của thánh Clara vào năm 1434. Năm 1456, Catarina được bầu chọn làm viện mẫu của cơ sở mới, đan viện Corpus Domini ở Bologna, và chẳng bao lâu đã thu hút khoảng 200 phụ nữ gia nhập cộng đoàn mình. (Vì tầm quan trọng của công trình Chị thực hiện ở đây, ngày nay Chị được biết đến với tên gọi là thánh Catherine thành Bologna). Vào giữa giai đoạn cải tổ, Catherine đã sáng tác một loạt công trình văn chương sâu sắc về đời sống thiêng liêng.
Những người đương thời với Chị, đặc biệt các CENK đã dấn thân cho việc học thuật và viết lách, trong đó có Agnes de Haricuria, người đã viết một cuốn sách về cuộc sống của Isabel nước Pháp, vị sáng lập phong trào cải tổ tại Longchamp nước Pháp.Iluminata Bembo viết cuốn cuộc đời của Catherine và Perrine de la Baume và la Roche viết cuốn đời sống của Colette thành Corbie. Ở Sicily, Giacoma Policina , Cecilia và Girolama da Messina xuất bản các tác phẩm ca ngợi sự thánh thiện của Eustochia Messina. Battista Varani trong thời gian này sáng tác nhiều tập Suy Niệm, cho thấy sự gắn bó sâu xa của CENK với việc suy niệm các cuộc thương khó của Đức Kitô.
Ngoài các tác phẩm về tiểu sử và linh đạo, gia đình thánh Clara cũng đã cung cấp nhiều sử gia trong thế kỷ 15. Chúng ta có thể nhắc đến Alessandra Foligno, Cecilia Coppoli và Eufrasia Alfari thành Ferugia, các nhà biên niên sử về đời sống các CENK tại Umbria. Battista da Montefeto, Isabela Farnese và Girolama thành Castille đã sáng tác nhiều tác phẩm văn chương và thi ca.
MỞ RỘNG RA BÊN NGOÀI CHÂU ÂU
Chúng ta đã nói về cuộc cải tổ giữa CENK trong ba thế kỷ đầu tiên của họ, giờ đây, có lẽ chúng ta cũng nên biết đến sự phát triển của dòng thánh Clara về phương diện địa lý. Nhiều tu viện đã được thiết lập, không những tại các nước Châu Âu, mà còn lan ra khỏi các biên giới Châu Âu đến những miền đất do những người Châu Âu biết đến trong “Kỷ nguyên khám phá”.
Như Phanxicô, Clara quan tâm nhiều đến Đất Thánh, đây là nơi mà các cuộc Thập tự chinh diễn ra trong suốt thời gian của Clara. Cuốn nhật tụng của thánh Clara, được giữ gìn cẩn thận tại Proto-Monastery ở Assisi, có ghi lại một lời kinh cầu nguyện cho sự tự do tại Đất thánh ở Palestine.
Khi còn tại thế hoặc có thể một thời gian ngắn sau khi Clara mất, CENK đã thiết lập một cơ sở ở Cận đông. Một lá thư của Đức Alexander V, đề năm 1257, ban những đặc ân cho đan viện CENK tại Antioch, Syria. Các nguồn tài liệu cũng cho biết các Chị em thuộc cộng đoàn này đã bị sát hại trong thời gian quân Hồi giáo chiếm đóng năm 1268. Chúng ta biết rằng năm 1291, khi quân Hồi giáo xâm chiếm vùng Acre ở Palestine, 74 CENK đã chịu tử đạo tại đây.
Tại Tripoli (Libya), một đan viện nổi tiếng dâng hiến cho thánh Clara, đã bị phá hủy trong cuộc xâm lăng năm 1289; viện mẫu Lucia và nhiều chị em khác bị sát hại bởi tay quân Hồi giáo. Ở Cyprus, đan viện của thánh Clara được xây dựng tại Nicosia một thời gian ngắn trước năm 1290, và một đan viện khác tên là Santa Maria di Cava được xây dựng từ đầu thế kỷ 14, đan viện này tồn tại cho đến thời kỳ quân Thổ Nhĩ Kỳ xâm lăng vào thập niên 1470. Những đan viện khác của CENK bị phá hủy trong cùng những năm loạn lạc này: Caffa ở Crimea; La Canea và Candia trên đảo Crete.
CHỊ EM NGHÈO KHÓ VÀ ANH EM HÈN MỌN
Vấn đề trợ giúp của AE đối với các cộng đoàn nữ tái xuất hiện vào thập niên 1500 với lệnh của Tổng phục vụ Lichetto, rằng bất kỳ đan viện mới nào cũng phải tự chu cấp đủ cho ít là 50 nữ tu (1518); và Tổng tu nghị (1532) quyết định hủy bỏ sự lệ thuộc kinh tế của cộng đoàn nữ vào các cộng đoàn nam. Công đồng Trent cũng ra quyết định tương tự: mỗi đan viện phải có đủ tiềm lực tự nuôi sống cộng đoàn mình. Các cộng đoàn Colettines phản đối quyết liệt quyết định này, vì nó đi ngược lại với tinh thần và cách thực hành của họ.
Trong khi vấn đề trợ giúp kinh tế đang được tranh luận, AE vẫn cống hiến sự nâng đỡ tinh thần cho các đan viện nữ này. Những nguyên tắc hướng dẫn cho sứ vụ này được Tổng phục vụ Francesco Gonzaga (1582), và Tổng tu nghị Valladolid (1593) và Rome (1639) ban hành.
Trong nhiều miền, CENK gặp nhiều khó khăn trong thời gian diễn ra phong trào Cải cách Tin Lành, đặc biệt là trường hợp của đan viện Nuremberg. Đan viện cổ kính nổi tiếng, ban đầu theo luật dòng thánh Augustinô, nay đổi sang giữ luật của thánh Clara năm 1274, có thảy 60 thành viên lúc phong trào Cải cách Tin Lành nổ ra. Viện mẫu ở đây từ năm 1503 tên là Charitas Pirkheimer (sinh năm 1466) là một người theo chủ nghĩa nhân văn xuất chúng và là bạn của Erasmus. Thân sinh của Chị là đại sứ, người em vừa là bạn của Erasmus vừa là bạn của Melancthon. Chị là một học giả chuyên về các Giáo phụ, và đặc biệt thích đọc Jerome. Chị tham gia tích cực trong những tranh luận thần học thời bấy giờ, trong những năm tranh luận gay gắt báo trước phong trào Cải cách Tin Lành. Đan viện của chị tại Nuremberg đã bị các phần tử phong trào cải cách đe dọa năm 1522 vì họ chống lại chương trình của các nhà cải cách này.
Được tin viện mẫu viết thư để ca ngợi tác giả Jerome Emser, người đã chỉ trích Luther, một số những người ủng hộ Luther đã chặn cướp lá thư và phổ biến nó. Điều này gây ra một cuộc bách hại nặng nề đưa đến sự hủy diệt của cộng đoàn Nuremberg.
Hội đồng thành phố biết rõ quan điểm của Charitas liền ngưng trợ giúp cho đan viện. Chị em bị cấm liên lạc với anh em Phan Sinh, và buộc bốn lần mỗi tuần phải lắng nghe cha tuyên úy do thành phố chỉ định. Vị này cố gắng thuyết phục chị em bỏ lối sống tu trì và đảm nhận cuộc cải cách do Luther đề xướng. Chị em bị cấm mặc áo dòng và không được thực hành kỷ luật nội vi. Charitas mất năm 1532, sau khi chứng kiến các thành viên của cộng đoàn bị ép buộc rời khỏi tu viện. Số thành viên đan viện ngày một giảm đi, vì chị em di chuyển đi nơi khác hoặc qua đời, không còn hy vọng nhận thêm những thành viên mới. Vị nữ tu cuối cùng của cộng đoàn mất năm 1591 sau khi đã trải qua một cuộc lưu đày trong vòng 60 năm.
Những cộng đoàn CENK khác cũng trải qua nhiều cuộc đụng độ với phong trào cải cách trong những thập niên 1530. Tại đan viện Geneva, cộng đoàn bị hỏi cung trong vòng 10 giờ về vấn đề chị em có muốn rời bỏ đời sống tu trì và lập gia đình không?(duy chỉ có một chị trẻ đồng ý). Bị trục xuất khỏi quê nhà, chị em trốn sang nước Pháp tiếp tục chịu đựng nhiều gian nan, theo như nhật ký của một trong các chị, Jeanne de Jussie, đã kể lại. Đan viện Vevey và Orbe bị tàn phá chẳng bao lâu sau đó, và nhiều chị em phải trốn sang Evian năm 1536. (Năm 1591 Evian cũng bị cướp phá, đan viện bị phá hủy và cộng đoàn tản mát khắp nơi). Ở Pháp người Huguenots cướp bóc và phá hủy các đan viện Lezignan, Nevers, Gien, Montbrison, Grenoble và Béziers.
Năm 1527 nhóm Calvinists vùng Low Countries, gọi là Geuzii, tấn công đan viện Bruges và năm 1577 họ đốt phá đan viện Ghent. Ở Hà Lan chị em vùng Delft trốn sang Lisbon ẩn trú, và các đan viện Harlem và Amsterdam đều bị san bằng. Chẳng bao lâu sau chị em Clara cũng bị buộc rời bỏ nước Anh, họ đi đến phía Bắc nước Pháp và vùng Brabant để được an toàn. Năm 1586 quân đội Anh ở vùng Caribbean cũng phá hủy tu viện chị em Clara ở Haiti.
Trong thế kỷ 16, ngoài việc bị bách hại và lưu đầy, CENK cũng có những lúc vinh quang, đặc biệt về phương diện viết các sách hướng dẫn thiêng liêng. Trong số những khuôn mặt trỗi trang của thời kỳ này, phải kể đến thánh Veronica Giuliani. Bà là viện mẫu đan viện chị em nghèo khó Capuchin ở Città di Castello, bắc Assisi. Là nhà thần bí được in năm dấu thánh, bộ sách tự thuật gồm 10 cuốn của Bà, trình bày linh đạo nằm sâu dưới nhiều phong trào cải tổ thời ấy, đặc biệt là sự gắn bó mật thiết với Đức Kitô chịu đóng đinh.
Veronica nhấn mạnh chủ đề phạt xác và hoán cải trong đời sống của một vị linh hướng là Maria Maddalena Martinengo. Maria Angela Gini cũng xuất sắc trong lãnh vực học thuật cũng như trường hợp của Firmina Cesi thành Foligno, cũng là người thông thạo tiếng Latin như một giảng viên đại học.
Tại Tây Ban Nha giáo lý về Vô Nhiễm Nguyên Tội thu hút nhiều nữ văn sĩ như Claudia San Miguel, người đã sáng tác bài Glossa pro Immaculata Conceptione và Maria de Pernia người đã viết nhiều vần thơ hướng về cùng một giáo lý như trên. Stefania de la Incarnacion, một người đạo hạnh và thông minh, đã sáng tác nhiều cuốn sách về thần học, triết học và thần bí. Dựa trên lối giải thích về học thuyết của John Dons Scotus, chân phước Maria de Agreda đã viết tác phẩm lớn nhất của bà là The Mystical City of God (Thành đô mầu nhiệm của Thiên Chúa).
NHỮNG CẢI TỔ TRONG THẾ KỶ 17
Suốt thập niên 1600, một loạt những cải tổ tác động lên AEHM và CENK: các nhóm Recollect, Alcantarine, Reformed và Capuchin, luôn nhắc nhớ đến gương sáng của Phanxicô và những anh em cải tổ ban đầu, và thường được các đan viện nữ ủng hộ nâng đỡ. Điều này, chúng ta ghi nhận ở bên Pháp, song song với anh em Recollect thì có các đan viện CENK Recollect. AE Alcantarine cũng có đối tác nữ nơi dòng CENK Chân không, được gọi là Poor Clare Solitaries of St. Peter of Alcantara ( CENK Clara Ẩn dật của thánh Phêrô Alcantara), được thiết lập tại Farfa năm 1679. Các chị em này sống đời ẩn dật giống như các ẩn sĩ Carthusian.
Một cộng đoàn CENK Capuchin được thành lập, họ theo Bản Hiến chương của “cuộc cải tổ thánh thiện tuyệt vời” cho các cộng đoàn nữ. Họ cũng còn được gọi là Daughters of the Passion ( Nữ tỳ của Đức Kitô khổ nạn), cộng đoàn này được thành lập năm 1538 tại Naples do chân phước Maria Lorenza Longo, trước đây là nữ tu dòng Ba tại viện; Chị này đã chọn bản luật thánh Clara cho cộng đoàn mới của mình. CENK Clara Capuchin phát triển khắp nước Ý, Tây Ban Nha, Pháp trong những năm kế tiếp, cũng như trường hợp của AE Capuchin vậy. Những thành viên mới này của gia đình thánh Clara được ĐHY Barberini ủng hộ. Ngài cũng giúp đỡ một vị sáng lập dòng khác là Maria Francesca Farnese, người đã thiết lập dòng CENK Clara theo khuynh hướng tuân thủ nhiệm nhặt tại đan viện ở Albano trên dãy núi bên ngoài thành Rome.
Nhóm được gọi là CE hoàng gia Urbanists ( The so-called Royal Urbanists, vì vừa liên quan đến quyền bảo trợ của triều đình vừa theo luật của Đức Uban IV ban hành) và nhiều nhóm cải tổ Urbanists khác cũng phát triển trong giai đoạn này. Nhóm chị em hoàng gia Urbanists đáng được quan tâm đặc biệt: họ bỏ nội vi, đời sống chung và cả áo dòng. Họ sống như những bà quý tộc ở những nơi đặc biệt và tự do đi lại. Họ biến mất vào thời cách mạng Pháp.
CENK đem lối sống của mình đến Châu Á lần đầu tiên vào thế kỷ 17. Năm 1621, một nhóm chị em từ đan viện ở Toledo, Santa Isabel de los Reyes, đến các đảo Philipinnes. Họ định cư ở Manila cho đến nữa đầu thế kỷ này. Họ là cộng đoàn duy nhất của các phụ nữ chiêm niệm Kitô giáo tại Á Châu. Sáu chị em từ cộng đoàn Manila sang đến Ma Cao, vùng đất kề bên bờ biển Trung Hoa năm 1634 và bẳt đầu lập một cộng đoàn mới tại đó. Họ chỉ được phép họ lưu lại đây trong 10 năm, trước khi bị trục xuất khỏi đất nước và bó buộc trở về Manila.
CÁC CHỊ EM NGHÈO KHÓ VÀO THẾ KỶ 18
Nói chung, đời sống tu trì thập niên 1700 gặp phải nhiều khó khăn từ hai phía: nội bộ thiếu sức sống , bên ngoài phải đương đầu với phong trào duy thế tục mới.. Một bản thống kê về các hội dòng cho thấy có một sự tăng trưởng rõ rệt về con số các Chị em nghèo khó, nhờ vào hoạt động và sức sống của các nhóm cải tổ mới vào thế kỷ 16 và 17. Ngay cả khi phong trào Cải cách Tin Lành đã đóng cửa nhiều đan viện, năm 1587 đã có 600 đan viện vẫn còn thuộc về dòng thánh Clara. Một thế kỷ sau, năm 1680, chứng kiến cao điểm về sự tăng trưởng số lượng của Dòng: 934 đan viện với 34.000 chị em Clara dưới quyền của dòng Nhất; có lẽ một số lượng tương đương như vậy ở dưới quyền của các Giám mục địa phương. Tổng số tất cả là khoảng 70.000 CENK vào cuối thế kỷ 17.
Đầu thế kỷ 18 số các đan viện tiếp tục gia tăng, trong khi số đan sĩ bắt đầu suy giảm; nhiều đan viện với ít tu sĩ. Vì bị đàn áp, các tu sĩ ngày càng trở nên mạnh mẽ vào giữa thế kỷ; những cộng đoàn nhỏ này trở thành những điểm nhắm đầu tiên mà chính quyền quốc gia muốn đóng cửa và chiếm đoạt tài sản; càng ngày chính quyền càng mạnh tay hơn trong việc xóa bỏ các đan viện. Joseph II nước Áo, năm 1781 ra lệnh cấm chỉ hoạt động các đan viện nào không có thu nhập; cộng đoàn Ghent phải chạy trốn sang Pháp đem theo thi hài của thánh Colette. Vào năm 1783, cộng đoàn Bruges cũng phải kưu vong sang Pháp.
Đầu thế kỷ 18 các cộng đoàn ở Pháp chịu ảnh hưởng nặng nề của phái Jansenism. Chị em nghèo khó là một trong số những người mạnh mẽ chống lại học thuyết này. Viện mẫu ở Lyon, Marie de St. Alexis (mất 1783) chống lại Bề trên là Abbe de Montazet theo phái phái Jansenism, vì vị bề trên này chống đối việc cử hành việc rước lễ hằng ngày. Năm 1720 cộng đoàn ở Poligny từ chối đón nhận vị giải tội của họ, vì vị này cũng trở thành người theo phái Jansenism. Cũng những chị này, năm 1750 bất chấp lời khuyên bảo của vua Lu-y XIV, từ chối đón tiếp một tu sĩ Carmelite thuộc về phái Jansenism.
Ngoài những khó khăn do phái Jansenism tạo ra, lịch sử dòng tu tại Pháp chẳng bao lâu gặp phải thử thách của cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng năm 1790 tạo ra những bi kịch mới. Từ chối tuyên thệ quyền công dân thường là đồng nghĩa với chấp nhận chịu chết; một chị Coletine ở Le Puy trả lời với vị thẩm phán: “tôi đã tuyên thệ vào ngày lễ khấn dòng, tôi không còn lời thề trung thành nào khác nữa”. Khi thị trưởng thành Marseilles đề nghị cho chị em nghèo khó Capuchin được hưởng hưu bổng hợp pháp, họ đã từ chối một cách lịch sự, nói rằng “chúng tôi không cần gì cả, vì chúng tôi biết án tử đang chờ đợi những ai từ chối không tuyên thệ quyền công dân”. Chị em nghèo khó ở Amien được Quốc hội mời đến bắt kê khai tài sản, họ đã can đảm trả lời qua lá thư giải thích cách thực hành đức nghèo khó của mình, là không sở hữu bất cứ vật gì. Bị trục xuất khỏi đan viện, chị em lang thang rầy đây mai đó, cố gắng giữ lối sống cầu nguyện và lao động ở những nơi trú ẩn tạm bợ. Chị em ở Alencon phải ngồi tù suốt một năm rưỡi vì chống đối các đòi hỏi của tân chính quyền. Các đan viện còn lại biến mất dần dần: Besancon, Paris, Poligny, Evian, Montbrison, Romans, Perignan, Lyons, Paris, Tulle, Argentan, Limoges, Saint-Omer. Ở Valenciennes, ngày 23 tháng10 năm 1794, chị Chân phước Josephine Leroux bị hành hình bằng máy chém, một nạn nhân của cuộc cách mạng.
PHÁT TRIỂN VÀ BÁCH HẠI TRONG THẾ KỶ 19
Khi Đức Pio VII phong thánh cho nhà cải tổ chị em nghèo khó Clara, Colette thành Corbie, vào ngày 24/5/1807, Giáo hội cũng cử hành một kỷ nguyên sức sống mới nơi các Chị em Nghèo khó, mặc dầu những khó khăn của thế kỷ 18 vẫn còn tồn tại trong thế kỷ 19.
Cộng đoàn Bruges được tái lập năm 1806, và cộng đoàn Ghent vào năm 1812. Năm 1829, khi tự do được tái lập tại Bỉ, hai cộng đoàn này gây nhiều ảnh hưởng ở bên ngoài đất nước mình. Viện mẫu ở Bruges, M. Maria Domenica, giống như chính Colette trong chương trình phát triển dòng của mình, đã giám sát việc thành lập 14 cộng đoàn trong đời mình: 9 ở Bỉ, 3 ở Anh, 1 ở Pháp. Tại Pháp, nhiều đan viện được tái lập ở Peron, Amiens, Lovans, Cambrai, Montbris, Aurillac và Marseilles. Những cộng đoàn này đã đi vào hoạt động từ năm 1807. Ít lâu sau đó, Leringes, Alencon, Perpignan và nhiều cộng đoàn khác, hoặc được phục hồi hoặc được thiết lập. Vào cuổi thế kỷ, năm 1876 cộng đoàn ở Lộ Đức bắt đầu xây dựng cơ sở mới tại Canada, năm 1902. Những cố gắng ban đầu nhằm đưa lối sống của Chị em nghèo khó đến Hoa Kỳ đã kết thúc trong thất bại. Năm 1792 cộng đoàn tại Georgetown, dưới sự coi sóc của viện mẫu Maria de Marche, chỉ tồn tại trong 14 năm. Những nổ lực để thiết lập đời sống chiêm niệm Phan Sinh nữ sau đó: họ đến ở Cincinnatti (1826- 1828), Pittsburgh (1828-1830), Detroit (1833-1839), Green Bay (1833) và sau đó trở lại Pittsburgh (1835-1839), nhưng không mấy thành công.
Hai chị em ruột thuộc dòng CENK, lãnh trách nhiệm thành lập cộng đoàn thánh Clara tại Hoa Kỳ. Đó là mẹ Maria Maddalena và chị Costanza thuộc gia đình quý phái Bentivoglio ở Bologna. Được tổng phục vụ AE Tuân thủ Bernadino thành Portogruaro khuyến khích, các Chị rời bỏ đan viện San Lorenzo ở Panisperma để đến Hoa Kỳ tháng 8 năm 1875. Hai Chị cũng trải qua thất bại lúc ban đầu vì không tìm thấy nơi giáo hội Hoa Kỳ một sự nâng đỡ nào cho đời sống chiêm niệm, hoặc ít là hiểu biết đôi chút về chiêm niệm. Hai chị đi từ Cincinnani đến Philadelphia, rồi xuống phía Nam đến New Orleans và lại hướng lên phía Bắc đến Cleveland, trước khi tìm ra một chỗ ở tại Omaha, Nebraska. Một người giáo dân, John Creighton, cung cấp một ngôi nhà cho họ ở đó năm 1878, và thậm chí ông này còn giúp họ dựng lại ngôi nhà, sau khi bị cơn bão phá đỗ. Cộng đoàn Omaha được cung hiến trọng thể năm 1882. Trước khi qua đời, năm 1905, Mother Maddalena đã lập thêm ba đan viện khác từ nhà mẹ Omaha.
Những cánh chim đầu đàn khác của CENK từ đan viện Pháp Paray-le-Monia đi lập dòng ở Nazareth vào năm 1884. Tại đây, Charles de Foucauld tìm kiếm việc làm và một ngôi nhà tạm bợ cho họ năm 1897. Năm tiếp theo, Charles “vị ẩn sĩ của chị em Clara khó nghèo” chuyển đến đan viện Giêrusalem; đan viện này đã mở cửa từ năm 1888.
Hai chị em từ cộng đoàn Jerusalem đã thành lập một cộng đoàn mới gần Alexandria, Ai Cập, trong thời gian lưu đày từ Jerusalem vào lúc thế chiến thứ nhất xảy ra.
THẾ KỶ 20
Mặc dầu vào đầu thế kỷ này, CENK vẫn còn gặp nhiều trở ngại, con số các đan viện vẫn xấp sỉ 500 và số chị em là 10.000. Sự tăng trưởng này đã góp phần cho sự lớn mạnh của CENK hướng về “những miền truyền giáo” trong thế kỷ này.
Đức Pio XI, năm 1929, đã kêu gọi sự hiện diện của các tu sĩ chiêm niệm nơi các vùng truyền giáo và đã nhận được sự hưởng ứng quảng đại của chị em thánh Clara. Nhằm duy trì truyền thống Phan Sinh cũ, chị em liền đi đến đất nước Hồi giáo. Ba nữ tu từ Bordeaux, Pháp, đến với cộng đoàn ở Morocco tại Casablanca, năm 1930. Nhiều chị em khác từ Bắc Phi chẳng mấy chốc cũng theo gương: đi Algier năm 1932; đi Rabat năm 1935.
Các nữ tu Colettine từ Besancon, Pháp, bắt đầu một cuộc phiêu lưu lâu dài và nguy hiểm ở vùng đông nam Châu Á năm 1932. Ban đầu họ định cư tại Pegu miền nam nước Myanmar. Thế chiến thứ hai buộc họ phải lánh nạn ở Mandalay với chị em dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ. Trong khi tìm nơi trú ẩn, họ đi đến Ấn Độ, trước hết là ở Calcutta, tiếp đến là dưới chân dãy núi Himalayas, ở trong nhà của dòng Tên. AE Capuchin hiến tặng cho chị em ngôi nhà ở Alwaye tại Malabar. Đây là nơi kết thúc một thập kỷ lang thang của chị em nhờ việc thiết lập một đan viện mới vào năm 1942.
Chiến tranh cũng đem lại cho chị em Phan Sinh nhiều đau khổ. Chị em nghèo khó Hà Lan thành lập cơ sở ở Java vùng Tjitwing năm 1934. Khi chiến sự bùng nổ, chị em bị bắt giam và đan viện của họ bị phá hủy gần như hoàn toàn. Năm 1936, CENK Capuchin từ Florence, Ý, lập được cơ sở đầu tiên tại Banpong ở Thái Lan. Cũng trong năm đó đan viện ở Vinh, Việt Nam được thành lập. Mặc dù CENK Capuchin từ Hà Lan đã khởi công thành lập một cơ sở ở Borneo năm 1927, nhưng chiến tranh đã ngăn cản họ thực hiện dự án này mãi cho đến năm 1950.
Ở Nhật, CENK từ đan viện Valleyfield, Canada, gầy dựng cộng đoàn đầu tiên tại Denenchofu năm 1947 sau chiến tranh ít lâu. Đan viện ở Nishinomiya, dành riêng cho các nữ tu Nhật Bản, đi vào hoạt động năm 1949.
Không lâu sau, tại Australia bắt đầu có một cộng đoàn khác do CENK thành lập, xuất phát từ đan viện Galluray, Ireland. Năm 1951, một nhà mới được xây dựng tại Waverley gần Sydney.
Sự phát triển những cộng đoàn mới nữ giới do CENK ghi dấu đáng kể trong thế kỷ này. Một vài cộng đoàn nữ tu kín, chọn lựa lối sống hoạt động tông đồ, đã tạo nên sự khác biệt trong gia đình Phan Sinh. Trong khi vẫn tuyên thệ giữ luật dòng CENK (luật của thánh Clara hoặc luật giải thích của Đức Uban) họ thiết lập một hình thức sống không có nội vi giáo hoàng và với một cơ cấu tổ chức tập quyền trên nhiều cộng đoàn khác nhau hơn là theo cơ cấu tự trị của mỗi đan viện. CENK Clara người Irish thuộc đan viện Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội ở Dublin đã chọn hình thức này từ năm 1807, và tiếp tục lối sống này cho đến ngày nay. Các CENK đan viện Cuernavaca đã thực hiện một bước đi tương tự. Họ mang tên là CENK Thừa Sai Clara của Chúa Giêsu Thánh Thể (the Missionary Poor Clares of the Blessed Sacrament), được chính thức nhìn nhận vào năm 1945. Họ chịu trách nhiệm thành lập một cộng đoàn tại Tokyo, Nhật Bản, năm 1952, và cống hiến công sức của mình trong lãnh vực Phúc Âm hóa.
Cuộc cải tổ đời sống tu trì trong những năm sau Công đồng Vatican II đã đưa CENK thuộc nhiều nhánh khác nhau đến một quan tâm mới trong việc trở về nguồn chung và trong nét độc đáo Phan Sinh về lối sống chiêm niệm. Xuyên qua việc tăng cường các tổ chức liên đan viện, và việc sửa đổi hiến chương nhằm diễn tả di sản trong Giáo hội hiện đại, CE dòng thánh Clara tiếp tục là một thành phần sinh động của đại gia đình Phan Sinh trên thế giới.
👉 (đọc tiếp các chương tiếp theo tại đây)
Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.
Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.