Skip to content
Main Banner
Thánh Têrêsa Hài Đồng (01/10)
Ngôn ngữ

TINH THẦN PHAN SINH

BTT OFMVN 01
2025-10-18 11:18 UTC+7 25
anhchiem-phansinh-1760752274.png

ANH CHỊ EM PHAN SINH

Tác giả: Tu sĩ William J. Short, OFM

Chuyển ngữ: Tu sĩ Irênê Nguyễn Thanh Minh, OFM


Chương V: TINH THẦN PHAN SINH

  • THẦN HỌC CỦA CHÀNG NGHÈO

  • VỊ THIÊN CHÚA CỦA TÌNH YÊU QUẢNG ĐẠI

  • THẦN HỌC VỀ HÌNH ẢNH

  • LINH ĐẠO VỀ ĐỨC KITÔ NHƯ LÀ TRUNG TÂM ĐIỂM

  • THÁNH PHANXICÔ

  • THÁNH BONAVENTURE

  • BẮT CHƯỚC VÀ YÊU THƯƠNG

  • MỤC TIÊU VÀ LỐI SỐNG CỦA ANH EM PHAN SINH

  • ẨN VIỆN VÀ NƠI LÀM VIỆC

  • ANH EM PHAN SINH VÀ ĐẠI HỌC

  • SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO PHAN SINH

  • VIỆC TRUYỀN GIÁO PHỔ QUÁT

  • TỪ QUÁ KHỨ ĐẾN HIỆN NAY


CHƯƠNG V: TINH THẦN PHAN SINH

Nếu công việc này được, một cách nào đó, coi như là tiểu sử của gia đình Phan Sinh, thì việc mô tả về gia đình này sẽ là không đầy đủ, nếu người ta không nói gì đến môi trường thiêng liêng mà trong đó gia đình này sống và lớn lên, và không nói đến bầu khí mà gia đình này tạo ra chung quanh mình. Chương này sẽ trình bày những đặc điểm làm nên nét khác biệt và những điểm nhấn độc đáo của gia đình này, cũng như giới thiệu cho độc giả biết đến một số khuôn mặt Phan Sinh đã giúp hình thành nên tinh thần đó.

AE Phan Sinh, dù rất đông đúc và nhiều khi rất khác biệt nhau, vẫn nêu lên được một mẫu số chung về những thực hành, ý tưởng, việc đạo đức và những hình ảnh quen thuộc. Tất cả đều đóng góp cho cái gọi là “tinh thần Phan Sinh”. Những trang sau đây, tôi sẽ sơ lược những nét chính yếu của bức họa trí thức và thiêng liêng của tinh thần này.

THẦN HỌC CỦA CHÀNG NGHÈO

Phanxicô là một nhà thần học theo nghĩa cũ, “một người nói về Thiên Chúa”. Mặc dù ít khi diễn tả dưới hình thức tín lý, nền thần học của Phanxicô bộc lộ ra trong những lòi kinh chúc tụng, thư tín, những bài giảng ngắn, những lời chúc lành và những huấn ngôn. Những đường nét được coi là độc đáo và phan sinh chính cống đến từ nguồn này. Qua nhiều thế kỷ, viễn tượng thần học Phan Sinh mặc lấy một hình thức có hệ thống hơn trong những tác phẩm của các môn đệ như là Bonaventure, John Duns Scotus. Ở đây chúng ta sẽ góp nhặt các mảnh vụn từ các phần khác nhau của truyền thống thần học Phan Sinh, để phát họa một bức tranh sơ lược và chắc chắn là không đầy đủ, của nền thần học mà Phanxicô đã diễn tả và gợi hứng.

VỊ THIÊN CHÚA CỦA TÌNH YÊU QUẢNG ĐẠI

Thiên Chúa thì tốt lành. Đây có thể là một khởi đầu của nền thần học Phan Sinh. Sự tốt lành của Thiên Chúa có một sức mạnh đặc biệt vì nó hoàn toàn có thực. Sự tốt lành của Thiên Chúa Tạo Hóa (fontalis plenitudo, theo Bonaventure) là một sự tự nhận thức về mình một cách đầy đủ; sự nhận thức này vốn là rất hiện thực đến nỗi trở thành ngôi vị, và được gọi là “Ngôi Lời” (exemplar omnium). Tương quan giữa sự tràn đầy và mô mẫu cũng rất hiện thực và cá biệt, làm thành Thánh Thần (co-generatus).

Đời sống nội tại của Thiên Chúa là một sự tốt lành, được bộc lộ ra một cách quảng đại và tràn đầy. Sự tốt lành thần linh này luôn sống động trong mối hiệp thông liên vị. Vì vậy, Thiên Chúa thì liên bản vị và tương quan.

Sự hiệp thông này đặt nền tảng trên Ngôi Lời, trung tâm của đời sống Thiên Chúa như là Ba Ngôi. Khát khao bộc lộ sự tốt lành tràn đầy, Thiên Chúa muốn đổ tràn sự tốt lành, như là một biểu hiệu của cuộc sống thần linh.

Nỗi khát khao chia sẻ sự tốt lành của Thiên Chúa được diễn tả qua việc tạo dựng; nhưng việc tạo dựng không phải chỉ là đón nhận một sự chia sẻ có giới hạn từ sự tốt lành và đời sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa thực sự muốn cho đi ngay cả điều tốt đẹp nhất của đời sống thần linh, đó là Ngôi Lời.

Với ý định này trong đầu, là nỗi khát khao cho đi điều quan trọng nhất của đời sống thần linh, Thiên Chúa tạo dựng thế giới qua Ngôi Lời. Bởi vì Ngôi Lời sẽ là vương miện vinh quang của tạo thành, Thiên Chúa làm ra ánh sáng và bóng tối, cỏ cây, sỏi đá, cá biển và mọi vật, theo như mô mẫu là Ngôi Lời. Con người, nam cũng như nữ, thì rất giống với mô mẫu mà Thiên Chúa dùng để tạo dựng. Bởi vì Ngôi Lời phải đến giữa những con người, như là một người trong số họ, cho nên họ giống Ngôi Lời một cách rất đặc biệt. Trong tất cả công trình tạo dựng này, Thiên Chúa biểu lộ một trong những đặc tính thần linh của mình, đó là tuôn trào điều gì thật sự bên trong mình, trao tặng tất cả nội tâm mình. Điều này, chúng ta có thể gọi là sự tự hạ của Thiên Chúa, một hành động tiêu biểu cho Đấng tự hiến mình. Chúng ta cũng có thể gọi điều này là sự khiêm hạ của Thiên Chúa, sự tự hủy của Thiên Chúa. Thiên Chúa trao ban tất cả, không giữ điều gì riêng cho bản thân mình: đó là sự nghèo khó của Thiên Chúa, được thể hiện nơi các tạo vật hữu hình và vô hình; đó là sự tự hiến kiên định của đời sống Ba Ngôi. Thế giới phản chiếu, lúc rõ ràng lúc mờ ảo, đời sống nội tâm thần linh của việc tự hạ thẳm sâu và quảng đại của Thiên Chúa.

Toàn thể thụ tạo phản ánh Thiên Chúa, nói về Thiên Chúa, mạc khải Thiên Chúa, vì chúng được tạo dựng theo mô mẫu của trái tim Thiên Chúa, tâm điểm của Ba Ngôi, đó là Ngôi Lời. Con người, cao điểm của tạo thành, phải thay mặt cả vũ trụ, để dâng lời ca ngợi Đấng Tạo Hóa.

Tạo thành được đầy đủ ý nghĩa nhờ việc Đức Giêsu được sinh ra. Đây là “mắc xích còn thiếu”, luôn hiện diện mà nay mới xuất hiện. Điều chính yếu, trọng tâm, nồng cốt của sự hiệp thông bên trong của Thiên Chúa đã đến, để trở thành một thụ tạo. Với việc Ngôi Lời ngự đến như một người trong họ, các tạo vật tìm thấy mô mẫu mặc lấy xác phàm của họ. Đức Kitô không phải là người xa lạ đến từ một thế giới xa lạ. Từ nguyên thủy, Người là lẽ sống và mô mẫu mà Đấng Tạo Hóa muốn cho mọi sự, hữu hình cũng như vô hình, cho mọi sự cũng như mọi người.

Bất cứ vẽ đẹp nào cũng đều phản ánh vẻ đẹp của Người; bất cứ sự sống nào đều sống nhờ Người; bất cứ sự thật nào đều bộc lộ Người, Đấng là sự thật; bất cứ điều gì hiện hữu thì hiện hữu trong Người. “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Lời tựa của Tin Mừng Gioan).

Trong “bài ca Tạo Vật” nổi danh, Phanxicô tuyên xưng sự hiện hữu của Thiên Chúa. Ngài vui thỏa trong thế giới tạo thành; và chỉ một động chạm nhẹ trên tạo vật cũng đủ làm cho ngài ngây ngất. Phanxicô tiếp tục thúc đẩy mọi người và mọi vật hãy “ca ngợi, tôn vinh và tán dương Đấng Tạo Hóa”. Ngài đối xử với chúng bằng thái độ kính trọng, nâng niu; Ngài nhắc nhở các đồ đệ mình hãy quý trọng mọi tạo vật vì tình yêu Thiên Chúa. Ngài gọi mọi vật là “anh” hoặc “chị”, và đối xử với chúng, không đơn giản chỉ là vì tò mò hay lạm dụng, nhưng vì tình thương mến dịu dàng.

Điều này diễn tả đầy đủ căn tính của Thiên Chúa: sự tự hạ sâu thẳm để hiến dâng thực tại sâu thẳm nhất của bản thân Thiên Chúa như một quà tặng. Sự quảng đại tuyệt đối của Thiên Chúa được mạc khải qua Nhập Thể: chẳng giữ gì riêng cho mình, chẳng có chi là tài sản của Thiên Chúa, tất cả đều là dâng hiến. Căn tính đích thực của Thiên Chúa chính là sự nghèo khó, không giữ gì là của riêng mình.

Thế giới tôn giáo của con người không thể chứa đựng hết mầu nhiệm này: Thiên Chúa không đến như một Thiên Thần, hay như một ngọn lửa bừng cháy, thậm chí cũng không như một tư tưởng hay một thị kiến; Thiên Chúa đến như một bé thơ. Và Ngôi Lời, nhập thể, đến một nơi chốn và một dân tộc được ghi dấu bởi đức nghèo khó, bởi vì chúng rất thích hợp để diễn tả mầu nhiệm này. Đó là sự mạc khải hoàn toàn gây bất ngờ của Đấng đích thực là Thiên Chúa.

Những suy tư thần học này không do Phanxicô hệ thống hóa, dầu vậy chúng giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của một vài cử chỉ và câu nói của Phanxicô. Lễ Giáng sinh gợi lại sự hạ mình sâu thẳm và sự dâng hiến bản thân mình của Thiên Chúa. Phanxicô cử hành ngày lễ một cách sinh động; Ngài dựng một khung cảnh sống động với thú vật và con người tại hang đá Greccio. Ngài tự tay tái hiện mầu nhiệm tình yêu nghèo khó của Thiên Chúa.

Đức Giêsu thể hiện trong cuộc sống mình căn tính này của Thiên Chúa: qua các lựa chọn, các lời nói, các bạn hữu, các địch thù, các cử chỉ của Người. Trong cuộc khổ nạn Người chịu, và nhất là trong cuộc thương khó, Đức Giêsu mạc khải căn tính bất ngờ của một Thiên Chúa hạ mình xuống để trao ban tất cả.

Ngay cả lúc Người chuẩn bị từ giã bạn hữu mình, tại bàn tiệc với họ, Đức Giêsu tiếp tục mạc khải căn tính này, cho dù rất khó chấp nhận đối với họ. Theo Tin Mừng Gioan, Người cởi áo ngoài, lấy khăn thắt ngang lưng và cúi xuống rửa chân cho họ. Đây thực sự là hình ảnh đích thực của Thiên Chúa. Trong các Tin Mừng Nhất lãm, Người làm việc với đôi bàn tay của người thợ, và trao hiến cuộc đời như chén rượu và tấm bánh.

Những cử chỉ này tiên báo sự tự hiến cao cả, là hạ mình xuống cho đến chết: Bị lột bỏ mọi thứ, phải đổ hết máu mình ra, nước cùng máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu, trao ban Thần khí, thân xác hoàn toàn bị dập nát và cạn kiệt sức lực, chấp nhận cơn hấp hối thể xác và nỗi cô đơn tinh thần; chính vào lúc này mà Đức Giêsu trao ban sự sống của Thiên Chúa.

Phanxicô nói về “người nghèo khó bị đóng đinh” là Đức Kitô, và biết rằng cuộc khổ nạn của Người là hành động cao cả của lòng Chúa quảng đại yêu thương. Và trong Thánh Thể, Phanxicô nhận ra hồng ân này được tiếp tục thể hiện: Đức Giêsu Kitô trao ban chính mình như là bánh và rượu. Sự sống thần linh này được trao ban cho loài thụ tạo, mãi mãi và không bao giờ rút lại.

Sự sống Ba Ngôi của Thiên Chúa, được mạc khải một cách tràn đầy và được trao ban một cách viên mãn, chiếu tỏa trong cuộc Phục sinh của Đức Giêsu với một niềm vui khôn tả. Việc vinh hiển của Đức Kitô, Đấng trở thành trưởng tử giữa các thụ tạo, cần phải được phát xuất từ Thiên Chúa. Lòng quảng đại của Thiên Chúa Ba Ngôi nay mở rộng cánh tay cho mọi thụ tạo. Định mệnh đầy đủ của mọi thụ tạo được biểu lộ ra, không những vì chúng được nên giống Ngôi Lời từ nguồn gốc, nhưng vì chúng còn được biến hình trong Ngôi Lời như là cùng đích của mình. Tất cả những gì Thiên Chúa đã trao ban, nay lại trở về với mối hiệp thông tràn đầy, cá vị này, mối hiệp thông được biến đổi và đầy tràn vinh quang.

Sự trao ban của Thiên Chúa là một quà tặng, được hiến dâng vô điều kiện. Đời sống đích thực của Thiên Chúa là sự hiến thân không ngừng trong mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Món quà thần linh của đời sống và hiệp thông được trao ban nhờ Ngôi Lời. Ngôi Lời được sinh ra như một thọ tạo, một nhân vị; đó là quà tặng trọn vẹn của bản thân Thiên Chúa.

Trong cuộc sống của Đức Giêsu, trong cái chết của Người và trong sự Phục sinh của Người, mọi tạo vật, cuối cùng và một cách tràn đầy, có thể trở về với Thiên Chúa như là một quà tặng, đó là quà tặng của Ngôi Lời. Vòng tròn dâng hiến này, trong đó Đấng tạo hóa và loài thụ tạo trao ban tất cả và lãnh nhận tất cả, đặt trên một tiền đề giản đơn: người ta không được giữ lại điều đã được trao ban cho mình. Khi điều này xảy ra, vòng tròn ân sủng bị bẽ gãy, sự luân chuyển các quà tặng bị ngưng trệ, toàn thể tạo thành gặp nguy cơ đánh mất ý nghĩa và và mất cả sự sống đích thực.

Theo thuật ngữ Phan Sinh đó chính là định nghĩa về tội lỗi; tội lỗi mà sách Sáng Thế đã trình bày, đó là từ chối trao ban quà tặng mà mình đã lãnh nhận.

Đối với một số tác giả Kitô giáo, tội nguyên tổ của Ađam và Eva là lòng kiêu ngạo; đối với nhiều người khác, đó là sự bất tuân. Còn đối với anh em Phan Sinh, đó là lòng khao khát chiếm hữu.

Đọc lại câu chuyện Sáng Thế dưới ánh sáng này, chúng ta thấy hai ông bà được tạo dựng “theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa”. Họ lãnh nhận tất cả từ Thiên Chúa như một quà tặng, và họ đã trao lại tất cả cho Thiên Chúa qua lời tán dương và tạ ơn đầy lòng cảm mến. Con rắn đến và đề nghị ban cho họ một điều: trái cây “sẽ làm cho họ nên giống Thiên Chúa”. Lời đề nghị này thật buồn cười: họ đã nên giống Thiên Chúa rồi. (Cha kẻ dối trá đang tác nghiệp, với một mưu mô xưa như trái đất: bán cho anh điều đã thuộc về anh). Sự khác biệt ở đây, vào thời điểm này, chính là điều ấy không được trao ban như một quà tặng, mà bị chiếm hữu, cưỡng đoạt và lấy đi.

Chính vào lúc này, vòng tròn quà tặng bị gãy đổ. Sự hài hòa của tạo thành bị tổn thương. Hình ảnh của Thiên Chúa bị lu mờ.

Chúng ta bắt đầu thấy ở đây lý do cho sự ưu tiên của đức nghèo khó và lòng biết ơn theo quan điểm của Phanxicô. Chúng là hai mặt của sự luân chuyển thánh thiện các quà tặng: lòng biết ơn thừa nhận rằng mọi sự đã được trao ban cho chúng ta, và đức nghèo buộc chúng ta lại trao ban tất cả lại cho kẻ khác.

Khảo sát ngắn gọn về quan điểm thần học Phan Sinh này giúp chúng ta hiểu được các lời nói, hành động và chọn lựa của Phanxicô.

Phanxicô đánh dấu cuộc đời mới của mình bằng dấu chỉ gặp gỡ người phong cùi. Những người mắc bệnh phong cùi trong thế kỷ 13 đã sống một sự nghèo khó cùng cực. Họ đã thật sự “chết” trong một thân xác còn sống, đầy thương tích, chết chóc. Tài sản của họ bị tước đoạt, tương quan gia đình, tình bạn hữu và những liên lạc xã hội khác bị phá vỡ. Họ sống nhờ quà tặng tình thương của người khác.

“Chúa đã dẫn tôi đến cùng họ”; Phanxicô coi như mình được dẫn đến cùng Chúa. “Điều cay đắng đối với tôi đã trở thành dịu ngọt”. Phanxicô tìm thấy nơi người phong cùi đức tính “ngọt ngào”; đức tính mà Ngài thường áp dụng cho sự hiện diện của Thiên Chúa.

Và Ngài ao ước ở lại với họ, ở với “những người bị khinh miệt, nghèo khó, bệnh tật, đau yếu và phong cùi, cũng như ở với những hành khất bên vệ đường”. Ở giữa những người này, những người bị coi thường, Phanxicô ao ước sống với họ. Họ giống như Đức Giêsu “nghèo khó và lưu lạc, sinh sống bằng cách ăn xin; chính Người và Mẹ Người đã sống như vậy”.

Nơi người nghèo, Phanxicô nhận ra hình ảnh của Đức Kitô, hình ảnh của Thiên Chúa. Đức Giêsu Kitô nghèo khó trong việc sinh hạ, nghèo khó trong cuộc sống, và nghèo khó trong cái chết của mình. Và Ngài muốn lưu lại trong thế giới như một người “bị coi thường, túng bấn và nghèo đói”.

Phanxicô ôm hôn người cùi, và qua cử chỉ này ôm hôn “bà chúa nghèo thánh thiện” và người chị của bà, “đức khiêm hạ thánh thiện”. Ngài làm điều này với một trực giác sâu sắc rằng: qua việc trao ban tất cả, Ngài chia sẻ hoạt động thần linh đích thực; Ngài muốn đón nhận căn tính đích thực là trở nên hình ảnh của Thiên Chúa nghèo khó. “Chúa đã tạo dựng và nắn đúc ngươi theo hình ảnh con yêu dấu của Người về phần xác, và theo sự tương đồng với Con của Người về phần hồn” thì “mọi tạo vật thiêng liêng hay hữu hình và cả chúng ta nữa đều được tạo thành theo hình ảnh và giống như Người”.

Cùng với việc khám phá đức nghèo khó của Thiên Chúa, Phanxicô nhận ra căn tính của mình là đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa; và Phanxicô cũng nhận ra mối tương quan của mình đối với tất cả tạo vật, bởi vì, giống như Phanxicô mọi tạo vật là hình ảnh của Thiên Chúa.

THẦN HỌC VỀ HÌNH ẢNH

Để nói về hình ảnh và vị trí của nó trong truyền thống đạo đức Phan Sinh, chúng ta có thể bắt đầu một cách đơn sơ bằng tấm gương soi. Nó có thể là một tấm gương bằng phẳng, vuôn vắn và hiện đại với khả năng phản chiếu chính xác. Hoặc cũng có thể là tấm gương hơi dơ bẩn cũ kỹ, phản chiếu một cách méo mó. Thậm chí chúng ta cũng có thể nghĩ đến bề mặt của một vũng nước dơ bẩn vào một ngày trời quan mây tạnh. Đó cũng là một loại gương soi.

Có lẽ nên nghĩ đến hình ảnh thi vị mà T.S. Eliot gợi ý: trong khi đi tàu lửa xuyên qua vùng làng quê nước Anh vào một buổi chiều hoàng hôn, ông nhìn qua cửa sổ để chiêm ngưỡng vẽ đẹp của núi đồi được chiếu sáng nhờ ánh sáng mặt trời đổ rực và ấm áp. Khi màn đêm buông xuống, đèn đuốc của toa xe lửa sáng rực hơn bên trong, và ông thấy khuôn mặt mình nổi lên trên vùng miền quê đen tối. Tấm kính trong suốt thay đổi thành tấm gương có khả năng phản chiếu.

Với kinh nghiệm thường ngày này, tôi cố gắng trình bày thần học về hình ảnh. Đây là yếu tố nền tảng nhất của trường phái Phan Sinh trong việc hiểu biết về Thiên Chúa, Đức Kitô, con người, và thế giới. Thư thứ hai gởi tín hữu Côrintô (3,18) nói về gương soi và hình ảnh. Do đó, đây sẽ là đoạn văn rất được yêu thích của các tác giả linh đạo Phan Sinh trong nhiều thế kỷ. Như thánh Phaolô viết “tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một tấm gương; như vậy chúng ta được biến đổi nên giống cùng một hình ảnh đó, từ vinh quang đến vinh quang, như do bởi Chúa là Thần Khí”.

Hình ảnh về gương soi mà Phaolô dùng, chỉ là một loại hình ảnh; hình chụp là một loại khác. Vì anh em Phan Sinh vốn thích điều cụ thể hơn là trừu tượng, cá vị hơn là tổng quát; hãy cho tôi nói đến một hình chụp đơn giản, hình chụp từ ngôi nhà của tôi tại California. Người chụp hình là Ansel Adams, mới qua đời gần đây; và bức hình chụp mang tên là “Mặt trăng và Half dome” Đây là một bức tranh rất thông thường. Mặt Trăng mọc lên trên vách đá gọi là “Half dome”, tọa lạc tại Yosemite National Park.

Bức tranh vẽ lại rất đúng điều mà ống kính thu lại: một khối to màu xám và một luồng sáng tròn trịa. Tôi đã có thể nhận ra nơi bức tranh này, với một cảm giác ngạc nhiên thích thú, rằng Adams điều chỉnh ống kính theo một góc độ nào đó để có thể quân bình giữa núi đá với ánh sáng của ánh trăng rằm. Bởi vì tôi nhìn gần hơn bức hình này, tôi cảm thấy rất lúng túng về bức tranh. Tôi có thể thấy vách đá, và tôi biết rằng vách đá hiện hữu thật sự trong cách thức mà bức tranh biểu lộ. Nhưng bức tranh cũng biểu lộ mặt trăng, mà tôi có thể thấy ở cách xa hằng ngàn miles, cũng trên cùng một bề mặt trang giấy với vách đá. Phía sau mặt trăng, bức tranh biểu lộ cho tôi thấy, trong mờ ảo, một khoảng không vô biên đằng sau mặt trăng. Màu đen tối này bao phủ gần phân nữa bức tranh. Hệ mặt trời, dải ngân hà, và không trung hiện ra trước mặt tôi, được cô động trong một hình ảnh, mà chỉ đo được mỗi bề 8x14 inches. Vô biên được gôm lại trong một không gian rất nhỏ. Cái nghịch lý mà chúng ta thấy trong bức tranh về vách đá và mặt trăng của Adams, làm cho chúng ta xúc động đến kinh ngạc, thán phục.

Tương tự như vậy, mầu nhiệm Nhập Thể cũng làm cho anh em Phan Sinh xúc động đến kinh ngạc.

Chẳng hạn như trích đoạn Côlôxê (1,15…): “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình; là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo; vì trong Người muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình…toàn thể tạo thành được tạo dựng qua Người và vì Người”, là nguồn mạch cho việc chiêm niệm sâu xa về Đức Giêsu là ai.

Ở đây nghịch lý không phải là một không gian vô biên được thu gọn trong giới hạn của một bức tranh, mà là quyền tối thượng và vinh quang của Thiên Chúa ẩn chứa nơi một con người là Đức Giêsu thành Nazareth, một người nghèo khó và chịu đau khổ.

Bởi vì thần học Phan Sinh rõ ràng là một cuốn tự thuật, hãy cho phép tôi thêm một hình ảnh chỉ là của riêng tôi mà thôi. Vào ngày 22/06/1893, tôi đang ngồi trong một chuyến tàu Ý đi từ Turin và Aosta hướng đến dãy núi Alps dọc theo biên giới Ý – Pháp. Bởi vì chuyến tàu địa phương chậm chạp đi qua thành phố cổ của Ivrea, cơn mưa bắt đầu rơi lất phất. Từ cửa sổ, tôi thấy một vũng nước dơ bẩn. Một ít giọt mưa làm cho bề mặt của nó nhấp nhô và chỉ phản ánh một cách mù mờ những gì soi chiếu trên nó. Dầu vậy phản chiếu này cho tôi thấy phần nào đám mây trên nền trời báo hiệu giông tố bão bùng sắp đến, cho dầu tôi không thấy bầu trời. Đoạn, bỗng chốc, tôi thấy một luồng ánh sáng của mặt trời rực rỡ chiếu dọi vào góc tối đám mây. Trong giây lát, vinh quang và lo sợ, ánh sáng và bóng tối, mặt trời cao cả và mây đen đều quy tụ trên bề mặt của vũng nước dơ bẩn trong cơn mưa này.

Có lẽ đối với tôi, cái vũng nước dơ bẩn này sẽ là biểu tượng lòng sùng kính Phan Sinh đối với mầu nhiệm Nhập Thể. Đó là sự khám phá mầu nhiệm về siêu việt tính của Thiên Chúa nơi con người nhỏ bé của chúng ta. Khám phá này đã dẫn đưa các nhà thần bí và học giả Phan Sinh triển khai các suy tư thần học về Đức Kitô trung tâm và quyền tối thượng của Đức Kitô; những suy tư này phát xuất từ kinh nghiệm của Đức Kitô trong vũ trụ tạo thành, đặc biệt là kinh nghiệm của chính Phanxicô.

LINH ĐẠO VỀ ĐỨC KITÔ NHƯ LÀ TRUNG TÂM ĐIỂM

Khi người ta hướng về linh đạo Phan Sinh, người ta tìm thấy Đức Kitô. Người như là trung tâm quy tụ lòng đạo đức, sứ vụ, đời sống chung, quyền bính, và đức ái. Thật hiển nhiên khi nói rằng linh đạo này là Kitô trung tâm (Christocentric). Từ ngữ này, cho dù bên ngoài có vẻ hướng về công nghệ, nhưng thật sự sinh động và luân chuyển bên dưới mọi tác phẩm và hạnh thánh Phanxicô đích thực.

Đức Kitô trở thành câu trả lời cho vấn nạn triết học: “tại sao một vật hiện hữu hoặc không hiện hữu?” Câu trả lời là “bởi vì Đức Kitô”. Từ một nguyên tử nhỏ cho đến toàn thể vũ trụ, trong mọi mức độ và giai đoạn cuộc sống và tình yêu, sức sống lan tỏa và sự hiện diện của Đức Kitô liên kết tất cả mọi sự với nhau, bởi vì chính Người thông truyền sức sống và hoàn thiện chúng.

Trong khi Đức Kitô luôn là tâm điểm đức tin của mọi tín hữu, chúng ta vẫn có thể nói Người là trung tâm điểm trong truyền thống Phan Sinh một cách rất đặc biệt. Chúng ta có thể nói về “tính quy Kitô triệt để”, khi anh em Phan Sinh muốn thấy Đức Kitô hiện diện nơi tâm lý học, đời sống xã hội, toán học, vật lý, âm nhạc và kịch nghệ. Bất cứ nơi nào hiện hữu một vật hay một người, thì nơi đó hiện hữu Đức Kitô. Dù không được thường xuyên nhận biết, Đức Kitô vẫn luôn là lẽ sống tuyệt đối đằng sau mọi sự.

THÁNH PHANXICÔ

Thần học gia Phan Sinh, Eric Doyle đã bình luận về tầm quan trọng của thuyết quy Kitô như sau: Nếu có một từ vựng diễn tả đầy đủ linh đạo và thần học Phan Sinh, thì đó là “quy Kitô”. Nó rất đặc trưng bởi vì niềm tin và sự thánh thiện của thánh Phanxicô hoàn toàn xoay quanh Đức Kitô. Trong Đức Giêsu Kitô, mạc khải được trao ban cho chúng ta về thế giới, trong toàn bộ cũng như trong các thành phần, có ý nghĩa gì đối với Thiên Chúa? Học thuyết về Đức Kitô trung tâm đã manh nha trong các tác phẩm của Phanxicô, và đã được triển khai bởi các nhà thần học nổi tiếng, đặc biệt như Alexander of Hales và học viên của ông là Bonaventure. Sau này, học thuyết đạt được một tầm quan trọng lớn hơn trong lời giảng dạy của John Duns Scotus.

Phanxicô đóng góp cho truyền thống quy Kitô trong bản luật 1221, khi Ngài viết: “Cha đã dựng nên muôn vật vô hình và hữu hình qua người Con” (Lksc 23). Trong một bài suy niệm dài về những lời nói đơn sơ ngắn gọn này, Doyle nói:

Tình yêu sốt mến của Phanxicô dành cho nhân tính của Đức Giêsu Kitô giúp Ngài hiểu rằng mọi thứ trên trời dưới đất đã được giao hòa với Thiên Chúa qua Đức Kitô (Thư gởi Toàn Dòng). Phanxicô nhắc nhở chúng ta nhận ra phẩm giá mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta:Người đã tạo dựng và nắn đúc nên ngươi theo hình ảnh Con yêu dấu của Người về phần xác, và theo sự tương đồng với Con của Người về phần hồn” (Huấn ngôn 5). Suy tư này là một trong những ý tưởng sâu sắc và có ảnh hưởng sâu rộng trong các tác phẩm của thánh Phanxicô. Rõ ràng Ngài quả quyết Ađam đầu tiên được tạo dựng theo hình ảnh của Ađam thứ hai là Đức Giêsu Kitô. Thân xác của Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu thành Nazaret là bản thiết kế cho hình hài của những con người đầu tiên. Sau Phanxicô không lâu, một tiến sĩ thông thái của dòng là Alexander of Hales, giải thích rằng hình ảnh của Thiên Chúa mà con người đã được tạo dựng giống hệt như vậy, đó chính là Đấng Cứu Thế, Người là trưởng tử của muôn loài… Với vẻ đơn giản và rõ ràng, những lời nói này của Phanxicô vừa được trình bày, chúng đạt được một nội dung thần học phong phú.Từ trong mầm mống này người ta có thể thấy được viễn tượng quy Kitô của trường phải Phan Sinh, và cả học thuyết về quyền bính tuyệt đối của Đức Kitô, như sau này được trình bày và giải thích rõ ràng nhờ John Duns Scotus.

THÁNH BONAVENTURE

Nhận thức sâu xa của Phanxicô về tính trung tâm của Đức Kitô trong công trình tạo dựng, được thánh Bonaventure diễn tả cách hùng hồn trong những tác phẩm thần học của Ngài. Zachary Hayes giải thích rằng Đức Kitô ngày càng trở nên tâm điểm trong thần học của thánh Bonaventure. Hayes nói: “cốt lõi của mầu nhiệm Kitô học là trong Đức Giêsu, trung tâm của mọi thực tại, tất cả đã được nhập thể và trở nên hữu hình nhờ Người”.

Khi suy niệm về chủ để hình ảnh, Bonaventure dùng khái niệm “mô mẫu” (exemplar). Có thể nói rằng mô mẫu là khi con người đứng trước tấm gương; và hình phản chiếu trong tấm gương là họa ảnh của mô mẫu. Theo quan điểm này, Bonaventure dùng một ẩn dụ đẹp về ngừơi nghệ sĩ đang tác nghiệp: Thiên Chúa là mô mẫu của tất cả mọi sự (khái niệm bên trong của nghệ sĩ); nhân tính của Đức Giêsu là biểu hiện của mô mẫu (tác phẩm nghệ thuật được tạo ra bởi nghệ nhân); tất cả tạo thành được hình thành trong Đức Kitô (tác phẩm nghệ thuật lấy mẫu từ tác phẩm nguyên thủy). Chính Bonaventure giải thích điều này như sau:

Một (mô mẫu) thì bên trong, trong tâm trí của nghệ nhân, đó là nguyên nhân theo đó ông làm ra tác phẩm. Hai là bên ngoài; đó là điều mà một người không biết gì về nghệ thuật có thể nhìn thấy. Điều này cũng giống như các “thợ sĩ” có được các hình mẫu ngoại tại để bắt chước; chẳng hạn như trường hợp những người thợ đóng giày.

Điều này có nghĩa là: Đức Kitô là bản thiết kế, hình ảnh, hoặc họa ảnh nói lên rằng Thiên Chúa dùng làm mẫu mực để tạo dáng mọi thành phần của công trình sáng tạo. Con người, một cách nào đó, diễn tả hình ảnh sáng tạo này. Quan điểm thần học về Đức Kitô là hình ảnh, có thể tìm thấy khi suy niệm về câu khẳng định của Phanxicô trong huấn ngôn thứ 5: “Người ơi, hãy nhìn xem Thiên Chúa đã đặt ngươi lên địa vị cao quí dường nào : Người đã tạo dựng và nắn đúc nên ngươi theo hình ảnh Con yêu dấu của Người về phần xác, và theo sự tương đồng với Con của Người về phần hồn”.

Trích đoạn ngắn ngủi này có thể được coi như là điểm gợi hứng cho nhiều triển khai sau này trong truyền thống thần học Phan Sinh. Nó ẩn chứa những yếu tố căn bản cho việc suy tư về nhân sinh học, Kitô học và thần học về hình ảnh.

Một tu sĩ Phan Sinh tên là John Duns Scotus đã suy niệm sâu sắc về khuôn mặt Đức Kitô như là trung tâm mọi sự (theo Bonaventure). Trước khi qua đời quá sớm, năm 1308, vào độ tuổi 34, Scotus đã triển khai từ ngữ đặc biệt của riêng mình là Quy Kitô. Scotus đã nâng lên một tầm mức khác của truyền thống tri thức Phan Sinh qua các tác phẩm thần học và triết học của mình.

Scotus đã cố gắng giải quyết một vấn nạn đặt ra trong các tác phẩm của nhiều thần học gia Kitô giáo. Để đơn giản, vấn đề được đặt ra do từ ngữ: “Đức Kitô đến trong trần gian vì tội của Adam”. Vào thời của Scotus, và vào thời của chúng ta, nhiều người không gặp khó khăn nào với câu này. Đức Kitô nhập thể nhằm mục đích sửa chữa hư hại do tội tổ tông gây ra. Chắc hẳn, ngay cả Scotus cũng thừa nhận câu nói này diễn tả một điều rất đúng. Tuy nhiên Scotus vẫn không hài lòng: câu này có thể không giải thích được cái lý do đầy đủ hoặc tốt nhất cho việc nhập thể của Ngôi Lời. Tại sao? Bằng ngôn từ chuyên môn, Scotus lý luận: “điều thiện hảo tối cao trong tất cả tạo thành không thể chỉ xẩy ra một cách tình cờ và do một điều ít tốt đẹp hơn”.

Theo ngôn từ của chúng ta, chúng ta có thể giải thích điều này như sau: việc Ngôi Lời nhập thể là sự thiện hảo cao nhất, là biểu lộ cao cả tình yêu Thiên Chúa. So sánh với tình yêu vô tận được mạc khải trong Nhập thể, thì tội Adam và những sửa chữa hậu quả của nó, tỏ ra là một điều ít thiện hảo hơn. (để dùng một ẩn dụ: đâu nhất thiết phải xây cầu Taj Mahal để che lấp một vũng lầy). Giải pháp này không tương xứng với vấn đề được giải quyết. Hơn thế nữa, lý thuyết bị Scotus bác bỏ, cho thấy rằng Nhập thể là một sự kiện ngẫu nhiên, xẩy ra cách tình cờ. Nếu Adam không phạm tội thì không cần đến Nhập thể. (Một vang vọng của suy tư này có thể tìm thấy trong bài ca Exultet của đêm vọng Phục Sinh: O felix culpa, “Ôi tội hồng phúc! Ôi tội cần thiết của Adam”.

Scotus đưa ra những lý do của việc nhập thể như thế này: “Tôi nghĩ rằng mầu nhiệm Nhập thể của Đức Kitô không thể được tiên báo như là do nguyên nhân phạm tội mà có; nhưng đã được Thiên Chúa thấy trước ngay từ thuở đời đời, như là một điều thiện hảo, thích hợp nhất với cùng đích của nó”. Lời xác quyết này, theo ngôn ngữ chuyên môn thời Trung cổ, cần được giải thích thêm. Từ ngữ “cùng đích” ám chỉ mục tiêu mà Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại. Cùng đích này, theo suy nghĩ của Scotus, chính là việc Thiên Chúa chia sẻ sự sống của mình. Mục tiêu cuối cùng phải là chia sẻ chính đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Ngôi Thứ Hai, Người Con hay là Ngôi Lời, là trung tâm, là thành viên trung gian. Người Con còn được gọi là trái tim hay là con đường dẫn đến Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì tình yêu Ba Ngôi tuôn trào trong hành động tạo dựng, Người Con là hình ảnh hay họa ảnh cho mọi vật mà Thiên Chúa dựng nên. Bây giờ, nếu cùng đích tối hậu của việc tạo dựng là việc tham dự vào đời sống thần linh, thì việc Nhập thể của Người Con là một Sự Thiện rất gần với mục đích đó; hay là, theo ngôn từ của Scotus, “thích hợp nhất cho cùng đích của nó”. Tại Sao? Bởi vì Đức Kitô trở thành cầu nối hoặc thành viên trung gian, liên kết tạo thành, đặc biệt là con người, với đời sống nội tại của Thiên Chúa. Đức Kitô trở thành cánh cửa cần thiết hoặc con đường dẫn đến đời sống của Thiên Chúa, đó là cùng đích tối hậu mà Thiên Chúa đề ra cho mọi tạo thành.

BẮT CHƯỚC VÀ YÊU THƯƠNG

Lòng cảm mến đối với mầu nhiệm Nhập thể luôn tiềm tàng trong suy tư Phan Sinh, mỗi khi nhắc lại các hành động của Đức Giêsu: đây là khởi điểm cho các thực hành đạo đức dựa trên việc tái hiện cụ thể các biến cố cứu độ, nhằm gởi đến cho mọi người, bất kể trình độ, văn hóa hay sức khỏe. Chẳng hạn, nguồn gốc hang đá lễ Giáng sinh cho thấy sự kiên định của Phanxicô trong việc mô phỏng cụ thể mầu nhiệm Nhập thể tại Bêlem, thường chỉ thuận tiện cho một ít khách hành hương ưu tú đến phương Đông. Sau này, những việc đạo đức Phan Sinh, như Chặng đường Thánh giá ở thế kỷ 18, giúp tín hữu bình dân có cơ hội tham dự cụ thể vào những bước chân biểu tượng của Đức Kitô trong biến cố khổ nạn và cái chết của Người. Thông thường đây là cơ hội chỉ dành cho một ít người có điều kiện hành hương đến Giêrusalem.

Quan điểm Phan Sinh về các mầu nhiệm trong cuộc đời của Đức Kitô không nhất thiết hướng về các nguyên tắc hay ý tưởng trừu tượng, nhưng hướng về việc bắt chước, tái diễn lại cuộc đời của Đức Giêsu, nhằm trải nghiệm từ bên trong những cách ứng xử của Đức Giêsu đối với trẻ em, người phong cùi, người bị ma quỷ ám và người Pharisêu.

Khát vọng nên giống Đức Giêsu thúc đẩy anh em Phan Sinh nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc bắt chước như là phương tiện hiệp thông. Có người lưu ý ở đây rằng một sự tin tưởng mặc nhiên vào giá trị cho người khát một ly nước lạnh thì hơn là suy nghĩ trườu tượng về giá trị của nước lạnh trong thế kỷ thứ nhất ở Palestine. Chúng ta có thể nói rằng anh em Phan Sinh đã biểu lộ một “nhận thức có tính cách Bí tích” (sacramentum consciouness), một ý thức về giá trị của dấu hiệu, cử chỉ, hành động như là những công cụ sư phạm trong đời sống Kitô hữu.

Tiếp nối quan điểm về việc bắt chước, truyền thống Phan sinh nhấn mạnh đến giá trị của “cách thức” Thiên Chúa tỏ tình yêu đối với nhân loại. Tình yêu này là một “tình yêu bị đóng đinh”, hay là, theo ngôn từ ngôi vị, đó là “Đấng là tình yêu chịu đóng đinh”.

Hai cách thức chính trong việc tiếp cận Thiên Chúa có thể được tóm tắt dưới các chủ đề: “Thiên Chúa là Chân Lý”, và “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Các chủ đề này được các truyền thống linh đạo Kitô giáo triển khai khác nhau, và chắc chắn có nhiều chủ đề phong phú khác để giải thích cách thức tiếp cận Thiên Chúa. Nhưng truyền thống Phan Sinh rất kiên định trong việc dành ưu tiên cho chủ đề Tình yêu, lòng sốt mến và ước muốn trong hành trình cuộc sống của con người đến cùng Thiên Chúa. Cuối cùng, đối với các bậc thầy về đời sống thiêng liêng này, ước muốn và lòng sốt mến sẽ hướng dẫn con người một cách chắc chắn đến cùng trái tim của Thiên Chúa, được thể hiện nơi tình yêu nóng bỏng của Đấng Chịu Đóng đinh.

Trong khi vẫn coi trọng kiến thức như phương tiện giúp người tín hữu hướng đến sự hiệp thông, truyền thống Phan Sinh nhấn mạnh đến một sự khôn ngoan nhiều hơn là kiên thức, một sự khôn ngoan nằm ở trung tâm quả tim con người. Thật vậy, chúng ta không phải chỉ là động vật có lý trí, nhưng sâu xa hơn chúng ta là những động vật có cảm xúc. Trong lúc, điều này không được coi như là cánh cửa dẫn đến tính đa cảm trong quá trình đời sống thiêng liêng (đôi khi nó cũng bị xuống cấp như vậy), truyền thống Phan Sinh luôn đề cao giá trị phong phú tuyệt vời của con người như là một hữu thể toàn vẹn, một hữu thể trong đó các năng lực trí tuệ và cảm giác không đối kháng nhau, nhưng bổ túc cho nhau: cảm xúc hoàn thành và làm viên mãn các chức năng trí tuệ.

Các vị thánh, nhà thần bí, thần học gia, thi sĩ và nghệ sĩ Phan Sinh không bao giờ cạn kiệt về đề tài “Tình Yêu bị đóng đinh”, như là khởi đầu và cùng đích của mọi hiệp thông đích thực với Thiên Chúa. Đối với họ, không có lối thoát nào ngoại trừ các thương tích của Đấng cứu thế; không có lối thoát nào khỏi hành vi tuyệt hảo nơi Đức Giêsu hiến dâng mạng sống mình cho các bạn hữu.

Bằng ngôn từ thần học, Bonaventure nói đến trong Hành trình tâm linh lên cùng Thiên Chúa, đỉnh cao nhất của hiệp thông mầu nhiệm là đón nhận Đấng chịu đóng đinh. Đây là con đường đi vào đời sống đích thực của Thiên Chúa. Không thể né tránh hoặc bỏ qua sự kiện Đấng Cứu thế Phục Sinh được trỗi dậy từ cây thập giá, và mang trong thân thể vinh quang của mình các dấu tích của khổ nạn và sự chết. Câu chuyện cứng lòng tin của Tôma được anh em Phan Sinh dùng để minh họa chân lý này.

Ngôi Lời là Thiên Chúa đến với chúng ta như một con người, Đức Giêsu thành Nazareth. Ngôi Lời cũng đến với chúng ta trong Thánh kinh, Cựu và Tân Ước, đặc biệt qua “thánh Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta”. Ngôi Lời đến với chúng ta bằng phương tiện thể lý và cụ thể dưới hình bánh và rượu nơi phép Thánh Thể. Đó cũng chính là Ngôi Lời đến với chúng ta bằng những cách thức khác nhau, như Người đã từng đến với Đức Maria như người con của Đức Maria.

Hiểu biết điều này sẽ giúp chúng ta nắm bắt được mối tương quan hỗ tương của ba chủ đề trong truyền thống đạo đức Phan Sinh: lòng sùng kính đối với Kinh Thánh, Thánh Thể, Đức Maria và Giáo Hội.

Đức Maria là nơi cư ngụ, nhà tạm của Ngôi Lời. Người cất giữ Ngôi Lời trong con tim và trao ban Ngôi Lời cho thế giới như người Con của mình. Vì vậy, Phanxicô nói về Đức Maria trong lời kinh “Kính Chào Đức Trinh Nữ”.

Cũng vậy, Giáo hội được nhìn nhận như là người mang trong mình Ngôi Lời, theo như mẫu gương của người phụ nữ đã ban Ngôi Lời cho thế giới. Giống như Đức Maria, Giáo hội vốn như một con người, đã được biến đổi bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần để trở thành Hiền Thê của Thần Khí. Giáo hội cũng là nhà tạm, nơi cư ngụ cho Ngôi Lời. Vì thế Phanxicô nói một cách rất sắc bén rằng Đức Maria là “Nữ Trinh làm nên Giáo hội”. Phanxicô yêu cầu anh em hãy tỏ lòng kính trọng đối với chữ viết trên những miếng giấy dù rất nhỏ. Những viết này có thể chứa đựng Danh của Đức Chúa. Những miếng giấy nhỏ đơn sơ trở thành biểu tượng của Ngôi Lời đối với Phanxicô. Tôn kính Lời, và việc sử dụng Lời, xuất phát từ tình yêu nóng bỏng đối với Đấng là Ngôi Lời của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Tương tự như thế, việc Phanxicô tôn kính các nhà thờ đi song song với việc tôn kính các mảnh giấy nhỏ. Những ngôi nhà thờ này chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc đời của Phanxicô, vì đó là nơi cụ thể, rất cụ thể Ngôi Lời hiện diện. Vì vậy anh em Phan Sinh phải thể hiện sự kính trọng cao độ đối với các nhà thờ; vì đó là nơi mà Ngôi Lời cư ngụ trong Bí Tích Thánh Thể. Do đó, Phanxicô đã cầu nguyện: “Chúng con thờ lạy Chúa nơi đây và trong hết mọi nhà thờ trên thế giới. Chúng con chúc tụng Chúa vì Chúa đã dùng cây Thánh Giá mà cứu chuộc thiên hạ”.

MỤC TIÊU VÀ LỐI SỐNG CỦA ANH EM PHAN SINH

Rất là tốt khi sở hữu một nền thần học, khi triển khai một nền linh đạo, và khi gây được một ảnh hưởng mạnh mẽ trên đời sống đạo đức của người bình dân. Tuy nhiên một truyền thống linh đạo còn phải có những việc làm khác, để tồn tại và phát triển trong lòng Giáo hội. Nó cần có một lối sống, một hệ thống các tương quan, những cấu trúc và những chương trình hầu có thể giúp chuyển tải từ viễn ảnh đến kinh nghiệm cuộc sống, và thường xuyên hướng kinh nghiệm đó về viễn ảnh nguyên thủy.

“Cách thức sống” Phan Sinh có thể được gọi là “vita evangelica”, lối sống Phúc Âm hay lối sống Tin Mừng. Tự bản chất, điều này không khác biệt gì với đời sống hiến dâng thông thường mà các tín hữu cam kết. Tuy nhiên, khi phân tích kỹ hơn, độc giả có thể nhận ra một ý nghĩa và một giải thích đặc thù về thuật ngữ này, vì nó chứa đựng thật nhiều điều độc đáo.

Trước hết anh em Phan Sinh có ý định sống toàn bộ Phúc Âm. Một lần nữa, điều này xem ra không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, trong thực tế, hầu hết các truyền thống trong Giáo hội khẳng định rằng mình sống một khía cạnh hoặc một vài khía cạnh của những chiều kích quan trọng trong Phúc Âm. Ví dụ, có nhóm chủ tâm noi theo đời sống ẩn dật của Đức Giêsu; nhóm khác noi theo gương mẫu rao giảng của Đức Giêsu trong đời sống công khai. Nhóm khác nữa tìm thấy gương mẫu nơi cuộc thương khó của Đức Giêsu; rồi nhóm khác lại tìm thấy gương mẫu nơi vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô.

Ngay từ thuở ban đầu, anh em Phan Sinh đã khẳng định mình muốn sống mọi thành phần của Phúc Âm, “Phúc Âm trọn vẹn”. Niềm ước ao này bao hàm tất cả mọi khía cạnh của Phúc Âm, phải được thực hành trong cuộc sống. Điều này dẫn đưa toàn gia đình Phan Sinh, trong tất cả các nhánh, đến việc phải sống toàn bộ Phúc Âm, trong cái nghịch lý, là có thể mâu thuẩn lẫn nhau. Những trang kế tiếp sẽ phát họa một vài đặc điểm quan trọng của lối sống Phan Sinh, và cho thấy lối sống này bao hàm những phần khác nhau của “toàn bộ Phúc Âm”.

ẨN VIỆN VÀ NƠI LÀM VIỆC

Bởi vì Anh em Phan sinh muốn sống toàn bộ Phúc Âm, Anh em đã khai sinh một hình thức mới của lối sống đặc biệt ; hình thức mới này không được xếp loại vào lối sống chiêm niệm hoặc vào hoạt động tông đồ, như người ta thường làm. Anh em được xếp vào loại “lối sống hỗn hợp, nghĩa là vừa chiêm niệm vừa hoạt động”. Đặc tính này có thể giúp chúng ta hiểu tại sao gia đình Phan Sinh có thể dành hết thời gian cho việc chiêm niệm và thừa sai. Họ làm nên một phần của toàn thể; và Phúc Âm đòi hỏi sự toàn thể này.

Clara nhắc nhở: phong trào Phan Sinh, từ nguyên thủy, đã không cần phải đấu tranh với vấn đề tầm quan trọng của đời sống chiêm niệm, nhưng là với câu hỏi là làm sao để rao giảng và đâu là chỗ đứng của rao giảng trong một cuộc sống dấn thân cho tinh thần “cầu nguyện và sốt mến”.

Trong tác phẩm Đại truyện của Bonaventure, Phanxicô đã hỏi hai người giúp cho mình biện phân về lối sống của Ngài. Đó là anh Sylvester, một người anh em, và chị Clara. Câu hỏi là: lối sống nào giúp cho Ngài phụng sự Chúa tốt nhất, ẩn tu hay rao giảng? Clara và Sylvester cầu nguyện về vấn đề này, và cả hai đều trả lời rằng Ngài nên tiếp tục rao giảng.

Vấn nạn, như Bonaventure trình bày, có lẽ liên quan đến những anh em khác hơn là đến Phanxicô. Clara sống đời chiêm niệm; Sylvester, một linh mục, được chúng ta biết đến nhiều nhất như là một vị ẩn tu, một vị chiêm niệm khác. Vấn nạn được đưa ra để hỏi hai vị cố vấn có uy thế, và câu trả lời của họ là Phanxicô hãy tiếp tục đời sống hoạt động, nghĩa là rao giảng.

Mặc dù từ ngữ “hoạt động” và “chiêm niệm” rất dễ bị hiểu lầm, khi nói đến những anh em Phan Sinh thuở ban đầu. Cả Phanxicô lẫn Clara không dùng từ ngữ “chiêm niệm”; nhưng các Ngài vẫn nói đến “chiêm niệm” trong nhiều cách khác nhau; Clara bàn đến chiêm niệm thường xuyên hơn là Phanxicô, nhưng chiêm niệm đây thường là hướng đến việc “nhìn ngắm” (looking at) hoặc “ngưỡng mộ” ( beholding).

Cả Phanxicô và Clara đều nói đến tinh thần cầu nguyện như là nguyên tắc hướng dẫn đời sống của anh em và chị em. Và cả hai đều khẳng định rằng đó là phần chính yếu nhất trong cuộc đời của họ.

Anh chị em sống đời đền tội, những người sống trong gia đình và có vị trí trong xã hội, cũng được mời gọi sống đời chiêm niệm và cầu nguyện trong hoàn cảnh cụ thể của họ.

Clara và chị em nêu lên một chứng từ đặc biệt cho chiều kích chiêm niệm của ơn gọi Phan Sinh. Trong cô tịch và hiệp thông, Chị em Nghèo khó biểu lộ ân huệ này qua đức nghèo triệt để, qua tình yêu hổ tương, qua cầu nguyện phụng vụ, qua việc lắng nghe Lời Chúa, và qua việc làm thường nhật.

Đời sống này là một hình thức rao giảng. Clara yêu cầu chị em sống lối sống Phúc Âm “trước mặt mọi người”, đến nỗi nhờ gương sáng của chị em, dân chúng có thể dễ dàng đến cùng Đức Kitô; chị em trở thành “một tấm gương và mẫu mực cho mọi người trên thế giới”.

Phanxicô viết một bản luật đặc biệt cho anh em sống trong ẩn viện; và trong cuộc sống của Ngài, Ngài làm chứng cho tầm quan trọng của tinh thần chiêm niệm trong bước đường hoán cải của mình. Những người viết tiểu sử Phanxicô mô tả Ngài đã dành đến bảy tháng trời trong một năm, để sống trong thinh lặng và cô tịch nơi các ẩn viện đầu tiên. Trong những nơi này (Grecio, Fonte Colombo, La Verna…), ba hay bốn anh em sống chiêm niệm, họ thay phiên nhau đổi vai “làm mẹ” và “làm con”.

Sự thay đổi vai trò dễ dàng này, mà chúng ta có thể gọi là hoạt động và chiêm niệm, cho thấy cái khó khăn để xác định “thể thức sống” của Phanxicô, chiêm niệm hay hoạt động. Đơn giản là vì nó có đầy đủ cả hai đặc tính.

Chính Phanxicô thường xuyên sống trong các nơi cô tịch này; Ngài thường xuyên cử hành một “mùa chay” để hãm mình và cầu nguyện. Những người viết tiểu sử nói rằng Ngài giữ đến 5 “mùa chay”. Chúng bao gồm mùa chay mừng mầu nhiệm nhập thể, khởi đầu từ lễ Các thánh, đầu tháng 11, đến lễ Giáng sinh. Một giai đoạn khác từ lễ Hiển linh, khoảng tháng giêng cho đến đầu mùa chay thánh, tức là 40 ngày trước lễ Phục sinh, để mừng mầu nhiệm Cứu độ. Từ lễ thánh Phêrô và Phaolô, cuối tháng 6, cho đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, giữa tháng 8, Ngài cũng sống ẩn dật và cầu nguyện. Từ lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời đến cuối tháng 9, lễ thánh tổng lãnh Thiên thần Micae, Ngài cũng giữ một mùa chay nữa. Chúng ta không biết liệu Phanxicô có giữ tất cả các mùa chay này hằng năm không. Nếu có, thì Phanxicô đã dành hơn nữa năm cho chiêm niệm cô tịch: đầu tháng 11 cho đến tháng 3 hay tháng 4 (tùy vào ngày lễ Phục Sinh), và từ cuối tháng 6 đến tháng 9.

Các anh em khác bắt chước cách thực hành này tùy mức độ nhiều ít. Họ chỉ bắt buộc tuân giữ “mùa chay lớn” (mùa chay thánh) trước lễ Phục Sinh và “mùa chay” (nhỏ) trước lễ Giáng Sinh. Chúng ta có thể nghĩ rằng một số anh em sẽ dùng những thời gian này để sống trong các ẩn viện; như thế họ thay đổi lối sống hoạt động trước đây nơi các ngoại ô thành phố hoặc đi rao giảng, bằng một lối sống chiêm niệm. Một số anh em dường như sống trong ẩn viện suốt cả năm ròng. Cho dù thời gian ngắn hay dài mà cá nhân anh em trải qua trong các ẩn viện; chiêm niệm vẫn là yếu tố quan trọng trong đời sống huynh đệ đoàn thuở ban đầu của dòng Anh Em Hèn Mọn.

ANH EM PHAN SINH VÀ ĐẠI HỌC

Lối sống Phan Sinh vừa hoạt động vừa chiêm niệm, cũng là một lối sống, trong đó việc học vấn đóng một vai trò quan trọng ngay từ thuở ban đầu. Trong bản luật 1223, Phanxicô nói đến cách thức làm việc: Ngài dạy anh em phải làm việc như thế nào, để khỏi “dập tắt tinh thần cầu nguyện và sốt mến, là đối tượng mà mọi thực tại trần gian khác phải tùy thuộc”. Nếu lá thư gởi Antôn, như vài người nghĩ, là tác phẩm đích thực của Phanxicô; thì nó làm vang vọng những tình cảm tương tự liên quan đến việc học vấn, đặc biệt là thần học.

Khi Phanxicô còn sống, anh em đã lui tới các trung tâm trí thức hàng đầu của thời đó như là: Paris, Oxford, Cambridge, Bologna. Một bản đồ những nơi cư ngụ của anh em Phan Sinh thời đầu bên nước Anh, cho thấy anh em đã đến các trung tâm dân sự (London), trung tâm tôn giáo (Canterbury), trung tâm văn hóa (Oxford) của thế kỷ XIII.

Tại Pháp, nơi cư ngụ đầu tiên ở Paris, anh em khởi sự bằng việc thuê mướn địa sở của các kinh sĩ thánh Germain des Prés. Sau một thời gian ngắn, anh em có được đất đai dọc theo sông Seine, nơi mà sau này được biết đến như là le Grand Couvent; tọa lạc tại nơi mà bây giờ gọi là Khu vực Latinh, Quận Đại học.

Anh em Phan Sinh mang đến nét đặc trưng cho hệ thống Đại học mới mẻ ở Âu Châu. Những suy tư sâu sắc về mầu nhiệm Nhập thể, và niềm tin vững mạnh nơi con người là hình ảnh của Thiên Chúa, đã giúp anh em đặt nền tảng cho “thần học Phan Sinh”.

Nhân vật vỹ đại nhất gắn kết với phong trào này là một người đương thời với Phanxicô, đó là thánh Antôn thành Padua. Đây là vị giảng viên đầu tiên của dòng. Antôn vào dòng sau khi đã hoàn tất học vị. Trước đó, anh là kinh sĩ dòng Augustine ở Bồ Đào Nha; và anh đã là giáo sư Kinh Thánh trước khi vào dòng.

Ít lâu sau đó, một học giả khác vào dòng, với tên gọi là Alexander of Hales, một người Anh, đã có vị trí thâm niên giảng sư tại Paris; anh cho phép cộng đoàn Phan Sinh quyền cấp các bằng học tập. Cùng với người đồng nghiệp của mình, một người Pháp tên là Jean de la Rochelle, Alexander có công đào tạo người trẻ Bonaventure, một sinh viên, sau này trở thành thần học gia đầu tiên của trường phái Phan Sinh.

Các thế hệ sau sẽ chứng kiến những đóng góp quan trọng của anh em Phan Sinh trong lãnh vực thần học và văn hóa. Hồng Y Ximenes, một anh em Phan Sinh và là người quản trị trường Đại học của Tây Ban Nha, xuất bản tác phẩm nổi tiếng Biblia Complutensis hay Kinh Thánh đa ngữ, vào năm 1517 tại Đại học Alcala do chính anh thiết lập. Anh Guillaume Le Menan đã dịch cuốn Kinh Thánh ra tiếng Pháp vào khoảng năm 1585, theo lệnh của Louis XI.

Giữa các học giả thần bí cũng có nhiều gương mặt nổi bật trong gia đình thánh Phanxicô. Giữa các chòm sao vĩ đại của các tác giả Rheno-Flemish (Ruysbroeck, Tauler, Eckhart) cũng có gương mặt Phan Sinh nổi bật: Henry de Herp hay Harphius (mất 1477). Anh là phụ trách HĐĐ tại Malines. Anh cũng là nhà giảng thuyết nổi tiếng và soạn giả sách thiêng liêng. Anh tạo được một ảnh hưởng sâu rộng trong suốt hai thế kỷ tiếp theo, bên trong cũng như bên ngoài Brabant, nhất là vào thế kỷ XVI tại Tây Ban Nha. Tác phẩm Gương Trọn Lành và Thần Học Huyền Bí (Mystical Theology) cho thấy một tổng hợp độc đáo về học thuyết Phan Sinh.

Rabelais, bản thân là một người Phan Sinh, và vị bề trên của anh ở HĐĐ Fontenay, đã có những liên lạc thư tín với các nhà nhân văn chủ nghĩa (humanists) của thời đó. Jean Vitrier phụ trách HĐĐ Saint Omer, một giáo sư khả kính, được mọi người khâm phục qua lời kể của Erasmus trong lá thơ gởi cho Josse Jonas. Vitrier nói rằng: “sẽ là một tội nặng khi nhấn mạnh quá đáng đến việc chay tịnh; và như thế, khi tranh luận về dinh dưỡng và đền tội, nó làm phương hại đến việc học các khoa học thánh”. Khi phát biểu như thế, Vitrier chắc hẳn là không phải không nghĩ đến các luồng sóng cải tổ rộng lớn nơi anh em Phan Sinh.

Nhà nhân văn chủ nghĩa lừng danh Erasmus có những nhận định về dòng Phan Sinh vào lúc khởi đầu phong trào nhân văn chủ nghĩa như sau: ‘Thánh Phanxicô trở thành vĩ đại trước mặt Thiên Chúa và con người, do các nhân đức chứ không phải do các tai tiếng. Người ta không bắt chước Phanxicô bằng cách đi chân không, với một sợi dây vải thắc lưng, với một chiếc áo thô hèn. Tôi sẽ tấn công các lạm dụng và thành kiến bất cứ nơi nào tôi thấy chúng; nhưng tôi không bao giờ tấn công bất cứ Hội dòng nào. Tôi chỉ phê bình sự thái quá của một số tu sĩ đã tỏ ra quá kính trọng bản luật của thánh Phanxicô hơn là Phúc Âm’.

Phong trào cải tổ nơi Anh em Hèn Mọn gặp phải sự chống đối kiên định và đôi khi ngoạn mục từ phía những anh em tại các trung tâm trí thức của dòng. Olivier Maillard trong nhiệm kỳ thứ ba làm Phó tổng phục vụ nhóm Tuân Thủ Ultramontane, năm 1502, đã cố gắng cải tổ HĐĐ to lớn ở Paris (le Grand Couvent) bằng cách bổ nhiệm 50 anh em thuộc phong trào cải tổ trong cộng đoàn Paris. Mục đích của anh là làm cho nhóm này trở thành hạt nhân đổi mới toàn thể cộng đoàn rộng lớn này, mà trong đó có gần đến 350 tu sĩ trẻ đang theo học lúc bấy giờ. Cộng đoàn từ chối đón nhận những người mới đến này. Georges d’Ambroise, Hồng Y bảo trợ, ra lệnh cho hai Giám mục phải kinh lý trọng thể, để bắt buộc cộng đoàn phải cải tổ. Anh em tu sĩ nghe biết việc này, thì tìm cách ngăn cản, bằng cách đặt Mình Thánh Chúa trên bàn thờ và bắt đầu hát Thần vụ. Khi các Giám mục tiến vào, ca đoàn hát lớn tiếng lời kinh ‘Adjuva nos, Deus, salutaris noster’! Và mỗi lần Giám mục mở miệng nói, thì anh em lại bắt đầu một Thánh vịnh mới. Sau 4 giờ “dùng Phụng vụ để phá rối”, các Giám mục phải rút lui. Tuy nhiên ngày hôm sau, 2 Giám mục lại đến; lần này với các quan chức nhà vua và 100 người bắn cung tinh nhuệ. Nhờ sự hiện diện của các binh lính này, các Giám mục có thể công bố việc cải tổ. Nhưng người ta không thành công bao nhiêu trước các vị tiến sĩ đang ngủ gật:

Họ bảo vệ lập trường bằng cách trưng ra các danh hiệu, quy luật, quyền hành, các lý do và ví dụ, và bằng cách đưa vào trong tu nghị các sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng, là những miễn trừ và đặc ân, và tất cả các thứ lề luật họ có thể tận dụng để bảo vệ họ.

Họ đã thắng: một ủy ban được thành lập để xem xét các phương án được đề xuất; và như vậy là kết thúc việc cải tổ.

Các tác giả Phan Sinh đóng góp nhiều cho “kỹ nguyên vàng” của khoa thần bí Tây Ban Nha vào thế kỷ 16. Têrêsa Avila nhận các tác giả Phan Sinh làm người hướng dẫn và thầy giáo, bao gồm Alfonso de Madrid với tác phẩm Arte de servir a Dios; Francisco de Osuna, tác giả cuốn The Third Spiritual Alphabet; Bernardin of Laredo, một anh em không Linh mục, một nhà vật lý học, và tác giả cuốn The Ascent of Mount Sion; và Peter of Alcantara.

Trong số những bậc thầy đáng kính hàng đầu, anh em Capuchin liệt kê Benoit de Canfield (William Fitch) (mất 1610), một người thuộc phái Thanh Giáo nước Anh trở lại (English Puritan); anh nhận được nhiều đặc sủng bí nhiệm lạ lùng. Tác phẩm của anh, cuốn the Rule of Perfection, cho thấy rằng mọi sự thánh thiện là thực thi ý của Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa hướng dẫn mọi hành động của mình.

Một người tiên phong trong việc nghiên cứu phê bình lịch sử hiện đại trong phạm vi này là Luke Wadding (1588-1657). Anh là sinh viên các trường Lisbon và đại học Coimbra; anh gia nhập dòng và xuất bản các tác phẩm của thánh Phanxicô năm 1623. Năm 1625 anh thành lập đại học St. Isidore ở Rôma, và năm 1639 anh xuất bản cuốn Opera Omnia of Scotus gồm 12 tập khổ lớn.

Lawrence of Brindisi, một tác giả lớn thuộc nhóm Capuchin; anh là nhà chú giải Kinh Thánh thông thái, thần học gia, và chuyên viên về Giáo phụ học. Hồng y Brancati, thuộc nhóm Viện Tu, là nhà nghiên cứu lỗi lạc về Duns Scotus, với nhiều tác phẩm suy tư chuyên sâu về các chủ đề Phan Sinh: Mầu nhiệm nhập thể và Vương quyền của Đức Kitô.

Sợi chỉ xuyên suốt trong các hoạt động tri thức của anh em là ý tưởng cho rằng: anh em Phan Sinh luôn coi mình là những người rao giảng cách này hay cách khác: đó là trách nhiệm loan báo Tin Mừng của Đức Kitô dưới mọi hình thức. Phanxicô đã nêu gương bắt chước Đức Kitô trong điều này, là sai anh em từng hai người một đi vào các làng mạc và thôn xóm để loan báo triều đại của Thiên Chúa. Anh em ngài vẫn tiếp tục hoạt động này, bằng cách thích nghi với những hoàn cảnh mới theo dòng thời gian. Chiều kích của lối sống Phan Sinh này, giờ đây đáng được chúng ta quan tâm đặc biệt.

SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO PHAN SINH

Một thách đố đối với thế giới hôm nay: điều gì đã khiến các nhà tiên phong vĩ đại trong quá khứ, làm cho một tu sĩ dòng Tên người Đức, cách đây nữa thế kỷ, nói lên nhận định như sau:

Từ thánh Biển Đức cho đến thánh Đaminh và cho đến thánh Inhaxio, cái nguyên lý hướng dẫn việc tổ chức các hội dòng mới thành lập, có vẻ như đi đến gần hết các khả năng phát triển nội tại của mình. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là nó hời hợt hoặc có thể thay thế được. Tuy nhiên một đường hướng vững chắc mới, được nhiều người tìm thấy và được trải nghiệm trong các hội dòng mới, nhất là đối với ngày hôm nay, có lẽ được tìm thấy nơi một đường lối hoàn toàn khác biệt, đó là Lý tưởng Phan Sinh thuở ban đầu: một sức sống tràn đầy trong một cộng đoàn tự do đầy yêu thương; một sự hồn nhiên phát triển mà không bị gò bó trong khuôn khổ các mệnh lệnh và quy định; một sự phát triển nhân cách tùy theo khuynh hướng tự nhiên, vừa mang lại sức sống vừa độc đáo; một sự tuân phục lề luật nội tâm sâu thẳm và sự tự chủ. Nếu ngày nào đó Thiên Chúa khấng ban cho Giáo hội một hội dòng trong tương lai, hội dòng mà rất nhiều người khao khát tìm thấy ngày hôm nay, thì hội dòng này chắc hẳn sẽ mang dấu ấn từ nguồn cảm hứng của thánh Phanxicô (Peter Lippert, SJ, in Stimmen der Zeit, 1927, quoted in Charism 1:10).

Những lời nói này, được viết ra từ hơn 50 năm qua, có thể làm cho anh em Phan Sinh hôm nay hổ thẹn, do tự hào phần nào nhưng cũng do bối rối ngần ngại. Giáo hội mong đợi nhiều nơi các môn đệ của Người nghèo thành Assisi; và bổn phận phải sống lý tưởng này nhiều khi có vẻ hầu như không thể được: đó là thực hiện những gì người ta chờ đợi nơi một hội dòng có đẳng cấp.

Việc sống lý tưởng này càng bị thách đố hơn trong miền truyền giáo. Trong nhiều trường hợp, lối tiếp cận Phan Sinh độc đáo về truyền giáo đưa người ta đến việc phải tìm hiểu lối sống Phan Sinh. Truyền giáo Phan Sinh là một lối sống, “lối sống Phúc Âm”, được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau trong các Bản luật và Tổng hiến chương của nhiều thành phần của đại gia đình Phan Sinh.

Bản luật 1223 của AEHM bắt đầu bằng lời này: “Luật và đời sống AEHM là: tuân giữ thánh Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta”. Thánh Clara, trong bản luật của ngài viết cho CENK, nhấn mạnh đến sự hiệp nhất sâu xa về viễn ảnh mà Chị và chị em cùng chia sẻ với thánh Phanxicô:

“Cha thánh khi nhận thấy rằng chúng tôi không sợ lối sống nghèo khó, việc làm vất vả, những thử thách gian nan, đau khổ, khiêm hạ, và bị thế gian khinh chê… Ngài viết: nhờ ơn Chúa soi sóng, chị em đã hiến mình để trở thành ái nữ và nữ tỳ của vua rất cao cả, là Cha trên trời, và hiền thê của Chúa Thánh Thần, khi chọn sống theo sự hoàn thiện của Thánh Phúc Âm…”

Bản luật của dòng Ba Phan Sinh tại viện bắt đầu bằng một điểm nhấn tương tự: “Thể thức sống của Anh chị em dòng Ba tại viện của thánh Phanxicô là: Tuân giữ thánh Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta”

Anh em Phan Sinh xem lối sống của mình như là truyền giáo. Và điều này khiến họ xem các hoạt động riêng rẽ như là biểu hiện sứ vụ căn bản của việc “sống theo thánh Phúc Âm”. Vì vậy AEHM diễn tả điều này, năm 1972, như sau:

Sứ vụ thiết yếu của HĐĐ chúng tôi, đáp ứng lời mời gọi của Giáo hội và của thế giới, là cố gắng sống cụ thể lời cam kết của chúng tôi… Chính là qua cách sống của chúng tôi mà chúng tôi sống đời chứng nhân. (The Vocation of the Order today, n.31, from the Chapter of Madrid, 1972, in Charism 2:16).

Đối với anh em Phan Sinh, truyền giáo được “nhập thể” trong lối sống bản thân mình. Đấng truyền giáo vĩ đại là con người Đức Giêsu: Ngài mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là ai; và Ngài thực thi điều này bằng hai cách: bằng lời nói (nói cho biết Thiên Chúa là ai); và bằng hành động (biểu lộ Thiên Chúa là ai). Sứ mạng truyền giáo này bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa; một tình yêu lớn lao đến nỗi Người đã sai Con Một của Người đến với chúng ta (Ga 3,16). Sứ vụ truyền giáo của Đức Giêsu mặc khải, qua nhiều phương cách khác nhau, Thiên Chúa là ai; như thánh Phanxicô nói: Đức Giêsu “đã tự hạ để cầu nguyện cùng Chúa Cha và làm cho danh Chúa Cha được mọi người biết đến”.

Việc mạc khải Thiên Chúa là ai này, nhờ sứ vụ truyền giáo của Đức Giêsu, đã được biểu lộ nơi việc tạo dựng. Thế giới tốt lành, cùng với con người ở tâm điểm, tỏ bày cho người ta biết Thiên Chúa là ai. Sự hài hòa của tạo thành, đã bị tội lỗi làm tổn thương, được Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, hàn gắn lại.

Phong trào truyền giáo Phan Sinh bắt đầu từ đây, như khi Phanxicô sai anh em đi vào thế giới với những lời nói sau đây: “Người đã sai anh em đi khắp thế gian để anh em dùng lời nói và việc làm mà làm chứng cho lời Người và dẫn đưa mọi người nhận biết chỉ một mình Người là Đấng Toàn Năng”.

Và sứ điệp về một Thiên Chúa duy nhất nẳm trong lời kinh của Đức Giêsu, lời kinh cầu cho sự hiệp nhất trong tình yêu; đó cũng là sứ điệp mà Phanxicô trích dẫn trong bản Luật không sắc chỉ: “ để thế gian nhận biết rằng Cha đã sai Con và đã yêu thương họ, như đã yêu thương Con. Con sẽ cho họ biết Danh Cha, để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa”.

Truyền giáo, theo quan điẻm của Phanxicô, không đơn giản là loan truyền một sứ điệp, cũng không phải là thực hành một số hoạt động. Truyền giáo là mạc khải Thiên Chúa, qua lối sống ở giữa những người khác, trong thế giới tốt lành này. Sống theo Phúc Âm luôn mang tính cách “truyền giáo”, vì lối sống này mạc khải Thiên Chúa là ai.

Phần chính của việc truyền giáo “sống theo thánh Phúc Âm” là yêu thương và chăm sóc lẫn nhau. Phanxicô viết “Nếu một người mẹ yêu thương và chăm sóc đứa con huyết nhục của mình, thì anh em càng yêu thương và chăm sóc nhau hơn nữa”. Các thành viên HĐĐ mạc khải Thiên Chúa cho người khác bằng tình yêu huynh đệ.

Những nét đặc biệt về tình yêu Thiên Chúa, được mạc khải nơi Đức Giêsu, sẽ làm cho anh em trở nên “hiếu hòa, tử tế, hiền lành và khiêm nhường” như Đức Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng.

Tình yêu cũng giúp họ chịu đựng đau khổ, theo gương mẫu của Đức Giêsu, Đấng đã tự hiến mình cho những kẻ đóng đinh mình. Chấp nhận “vâng phục mọi thụ tạo”, họ tránh được “gây sự và lao vào những cuộc cãi cọ” với những người chống báng họ.

Đáng ngạc nhiên là tình yêu nhẫn nại và hiếu hòa này lại là phương cách đầu tiên rao giảng Tin Mừng trong thế giới Hồi Giáo. Khi nói đến anh em được Thiên Chúa thúc đẩy “đi đến người Hồi giáo và dân ngoại”, Phanxicô nói rằng họ có thể loan báo Tin Mừng bằng cách “đừng tranh cãi hay chống báng , nhưng hãy tuân phục mọi người vì Thiên Chúa, và tuyên xưng mình là Kitô hữu”.

Được biết rằng những dòng chữ này được viết vào thời điểm Thập Tự chinh thứ IV, lệnh truyền này có ý nghĩa đặc biệt khi nhấn mạnh đến tính hiếu hòa và khiêm nhường, mà người Kitô hữu lẽ ra phải thể hiện với người Hồi giáo láng giềng.

Vào những thời điểm nhất định, việc truyền giáo này chỉ cổ võ một sự khuyến khích đơn giản cho niềm tin Kitô hữu; nhưng có “một cách khác” để loan báo Tin Mừng, đó cũng là cách mà Thiên Chúa có thể soi sáng ở nhiều mốc thời gian khác nhau. Như Phanxicô viết:

Một cách khác là công khai loan báo Lời của Thiên Chúa, “khi thấy đẹp lòng Chúa, anh em hãy loan báo Lời Chúa, để lương dân tin vào Thiên Chúa toàn Năng, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Đấng tạo thành muôn loài; cùng tin vào Chúa Con là Đấng cứu chuộc và Cứu Độ, để họ được thanh tẩy và trở thành Kitô hữu.

VIỆC TRUYỀN GIÁO PHỔ QUÁT

Ngay từ đầu, khi thi hành sứ vụ truyền giáo của Phanxicô giữa người Hồi giáo ở Bắc Phi, thì dự phóng Phan Sinh loan báo Tin Mừng vẫn là nhắm đến cả sáu Châu lục.

Tại viễn Đông, Odoric of Pordenone tiếp nối lộ trình các anh em Phan Sinh tiên phong: John of Piancarpino và John of Montecorvino. Năm 1314 Odoric of Pordenone lên thuyền rời Venice, vượt qua Persia Kurdestan và đến Ấn Độ Dương. Sau khi đi dọc theo bờ biển Malabar, và trải qua một hành trình dài giữa các đảo Indonesia, anh đến Trung Quốc. Ở đây anh đã thấy nhiều HĐĐ Phan Sinh cùng với nhiều người Kitô hữu, đặc biệt những kiều dân Ý đến Bắc Kinh. Có một HĐĐ ở Zayton (Ch’an Chun/ Quãng Du) đối diện Taiwan, anh em ở đây đã thể hiện lòng hiếu khách đối với các thương gia người Âu Châu đến buôn bán. Odoric of Pordenone ở lại Tibet và chỉ trở về Âu Châu trước lúc qua đời năm 1331.

Hoặc động ở vùng Cận Đông vẫn tiếp tục trong suốt thế kỷ này. Vào ngày 11/7/1309 Anh em Phan Sinh (Friars of the Cord) được giấy phép cư ngụ tại Đất Thánh (Mt. Sion, Mộ Thánh, Bethlehem), do Sultan Bibar II Rokneddin ký. Giấy phép thừa nhận quyền cư trú của Anh em Phan Sinh tại những nơi này, và cho đến nay vẫn còn hiệu lực. Tỉnh dòng này, the Sacred Custudy of the Holy Land, nhận được sự quan tâm đặc biệt của toàn dòng kể từ khi Phanxicô đến đó, để đi theo vết chân Đức Kitô. Đức Gregory IX chính thức bổ nhiệm Anh em Phan Sinh là “người bảo vệ Đất Thánh” năm 1230.

Hoạt động Phúc Âm hóa của Anh em Phan Sinh lan truyền đến Nhật Bản, nơi đây đang có cuộc bách hại ở Nagasaki năm 1597, làm nhiều anh em Phan Sinh, tu sĩ và giáo dân dòng Ba, thiệt mạng. Ở Philippines, một trong những điểm truyền giáo năng động nhất, Anh em đã thiết lập nhiều trường Đại học và nhiều bệnh viện cho các bệnh nhân phong cùi. Việc truyền giáo ở Ấn Độ cũng không thua kém nước Philippines. Vị Tổng giám mục đầu tiên ở Goa, là một anh em Phan Sinh: Juan de Albuquerque; anh là phó vương miền Đông Ấn, và anh đã giúp thánh Phanxicô Xaviê tại Goa.

Trong làn sóng di dân người Âu Châu đến Hoa Kỳ, Anh em Phan Sinh là những người đầu tiên được mời gọi đi truyền giáo ở “Tân Thế Giới”. Hai tu sĩ Tây Ban Nha tháp tùng Columbus trong chuyến hành trình thứ hai năm 1493. Tỉnh dòng Phan Sinh đầu tiên được thành lập tại Espanola năm 1505; và không lâu sau đó, Anh em đến các vùng đất Santo Domingo, Colombia, Venezuela và Mexicô. Trong vòng 25 năm, Anh em định cư ở Peru, Nicaragua, và Panama. Chẳng bao lâu việc thiết lập các cộng đoàn mới nhanh chóng lan rộng qua Bolivia, Chile và Equador.

Vào những năm đầu thập niên 1600, Anh em Phan Sinh Recollect Pháp đến Canada. Khoảng giữa thế kỷ này Anh em Phan Sinh Bồ Đào Nha định cư ở Brazil. Ở các vùng thuộc địa của nước Anh tại Hoa Kỳ, một số anh em Phan Sinh đến làm việc sau năm 1673.

Tỉnh dòng Santa Elena of Florida, đặt văn phòng tỉnh dòng ở Havana, Cuba, năm 1612, gởi nhiều Anh em đi đến miền Đông Nam Hoa Kỳ để thiết lập những điểm truyền giáo ở Florida và Georgia. Những điểm truyền giáo đầu tiên ở Texas được Anh em Mexicô sáng lập vào năm 1690; và họ định cư ở Arizona vào khoảng giữa thế kỷ sau. Vào thập niên 1770, dưới sự lãnh đạo của anh chân phước Junipero Serra, Anh em Phan Sinh đến California. Một chuỗi các điểm truyền giáo ở California dọc theo duyên hải Thái Bình Dương đã để lại những chứng tích nổi tiếng trong lịch sử Phan Sinh ở Hoa Kỳ cho đến ngày nay.

TỪ QUÁ KHỨ ĐẾN HIỆN NAY

Những thành công này đã xảy ra trong quá khứ. Những vị tiên phong, những người khám phá, và đôi khi những người mạo hiểm Phan Sinh đã đem Phúc Âm đến nhiều miền trên thế giới, vào những giai đoạn dường như rất xa chúng ta. Những trang này phát họa lịch sử của một gia đình, và cái nhìn đại cương về các học giả, nhà thần bí, nhà chiêm niệm, và nhà truyền giáo để lại cho chúng ta một gia sản Phan Sinh tồn tại cho đến ngày hôm nay.

Nếu chúng ta nhìn lịch sử này như một bản nhạc giao hưởng Phan Sinh, chúng ta có thể nhận ra một vài điệp khúc, khi thì thể hiện ở cung thứ, khi thì chuyển sang cung trưởng, nhưng luôn luôn liên kết với nhau bằng những rung động của cùng một đề tài.

Những đề tài này chắc chắn bao gồm đề tài về sự nghèo khó, một thách đố thường xuyên của gia đình Phan Sinh. Một đề tài khác là chiều kích chiêm niệm của lối sống chúng ta, và những cách thức mà việc chiêm niệm liên kết mật thiết với các loại hình khác nhau trong sinh hoạt, từ việc theo học Đại học cho đến các công trình truyền giáo đầy bất trắc.

Một đề tài phát sinh vào những lúc thành lập các tu hội mới, đó là đề tài về việc tham gia của những người nam và nữ, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Khi nhiều, khi ít, Anh em Phan Sinh đã nêu cao lý tưởng của mình là trở nên một gia đình, trong đó mọi người là anh chị em với nhau.

Bây giờ là lúc nói về những người Phan Sinh hôm nay, và về những địa điểm mà anh chị em Phan Sinh đã từng đến trong quá khứ.

👉 (đọc tiếp các chương tiếp theo tại đây)

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.