Skip to content
Main Banner
Ngôn ngữ

Linh đạo cho người làm truyền thông Kitô giáo

BTT OFMVN 01
2024-07-24 10:13 UTC+7 1150

Linh đạo cho người làm truyền thông Kitô giáo

Nguyên tác: Fr. Franz-Josef Eilers, SVD. Spirituality of the Christian Communicator. (Published in Jacob Scrampickal, Giuseppe Mazza & Lloyd Baugh [eds.]"Cross Connections. Interdisciplinary Communication Studies at the Gregorian University", Roma, [Editrice Pontificia Universita Gregoriana], 2006, pp. 187-198)

Chuyển ngữ: Tu sĩ Lm. Phêrô Nguyễn Văn Dũng, OFM (www.communication-theology.com)

 

Cha Pedro Arrupe, Bề trên Tổng quyền Dòng Tên, đặc biệt quan tâm đến việc nghiên cứu và suy ngẫm sâu sắc về vai trò của Truyền thông Xã hội trong Thế giới và Giáo hội. Năm 1973, ngài giao cho thư ký truyền thông của mình, Cha Stephan Bamberger, SJ, nhiệm vụ xem xét khả năng nghiên cứu về Truyền thông của Dòng Tên. Cha Bamberger đã thành lập một nhóm công tác, trong đó có cả những người không thuộc Dòng Tên như tác giả của bài viết này. Từ những cuộc thảo luận, chủ yếu diễn ra tại Rome, Cavaletti và Milwaukee (Mỹ), một "Đơn vị Hỗ trợ Nghiên cứu Truyền thông Xã hội" đã được thành lập vào ngày 8 tháng 6 năm 1976 và đặt trụ sở tại London. Ngay từ đầu, đã có niềm tin rằng dự án này phải mang tính liên ngành. Các nhiệm vụ chính của văn phòng mới được mô tả như sau:

1.      Thiết lập liên lạc giữa các nhà nghiên cứu và các tổ chức cần nghiên cứu.

2.      Đưa ra và thu hút sự chú ý đến những câu hỏi chưa được trả lời mà cần phải nghiên cứu.

3.      Tư vấn và khuyến khích nỗ lực của các nhà nghiên cứu trẻ trong lĩnh vực Truyền thông.

4.      Cung cấp hỗ trợ trực tiếp cho các dự án nghiên cứu ở những nơi mà nhân sự nghiên cứu địa phương không đủ nguồn lực để thực hiện công việc của họ.

Năm 1979, Đơn vị này được đổi tên thành "Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông và Văn hóa". Cha Robert White được đặt làm giám đốc nghiên cứu của Trung tâm này ngay sau khi ngài được bài sai đến Đại học Gregorian.

Ngay trong quá trình cân nhắc cho Đơn vị London, đã có câu hỏi tại sao Đại học Gregorian của Dòng Tên ở Rome không được giao nhiệm vụ cho sáng kiến này. Nhưng rõ ràng, cấu trúc và tư duy của thời đó chưa sẵn sàng cho một sáng kiến như vậy. Cuối cùng, Carlo Martini, sau này là Tổng Giám mục Milan, khi còn là hiệu trưởng của Đại học Gregorian đã lên tiếng thúc đẩy loại sáng kiến đó. Từ bên trong đại học, ngài được hỗ trợ bởi Cha Peter Henrici, trưởng khoa Triết học và sau này là Giám mục ở Zurich. Ngài trở thành giám đốc đầu tiên của sáng kiến này, được hỗ trợ bởi một nhóm nghiên cứu từ bên trong Đại học và một số cố vấn bên ngoài, bao gồm cả cố Giám mục Agnellus Andrew, OFM, khi đó là Phó chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội. Nhóm này đã phát triển một chương trình mở cho tất cả các khoa của đại học và không chỉ quan tâm đến kỹ năng thực hành mà còn là một nơi của sự xuất sắc học thuật, những hiểu biết sâu sắc và nghiên cứu về hoạt động và trách nhiệm của Giáo hội trong lĩnh vực này. Trung tâm Liên ngành về Truyền thông Xã hội  đã 'ra đời' vào tháng 2 năm 1981 và được chỉ đạo đầu tiên bởi Cha Peter Henrici, người sau đó được kế nhiệm bởi Cha Robert White theo đề xuất của nhóm nghiên cứu cho chương trình.

I. Những Suy Tư Kinh Thánh của Carlo Martini

Ngay từ thời gian làm việc tại Đại học Gregorian, nhà nghiên cứu Kinh Thánh Carlo Martini, SJ đã duy trì sự quan tâm đối với truyền thông xã hội, kể cả khi ngài là Tổng Giám mục Milan. Ngài đã phát triển các kế hoạch mục vụ hàng năm cho giáo phận của mình và trong hai năm (1990/1991), chủ đề là truyền thông xã hội. Chính ngài đã viết các tài liệu cơ bản cho những kế hoạch mục vụ này và tài liệu "Ephata, Apriti" năm 1990 của ngài đã trở thành 'Đại Hiến chương' cho linh đạo truyền thông Kinh Thánh (Martini 1990; 1994). Trong đó, Martini nhấn mạnh rằng truyền thông “không phải là một chủ đề phụ hoặc xa xỉ. Đó là vấn đề của chính điều kiện tồn tại của chúng ta là con người và là Giáo hội” (số 3). Bất kỳ linh đạo nào của một người truyền thông Kitô giáo cũng phải được đặt nền tảng trên Kinh Thánh, từ đó các suy tư căn bản của Hồng y Martini phát sinh. Linh đạo không chỉ xem xét các cách thức và phương tiện truyền thông của Thiên Chúa trong sự mặc khải và nhập thể mà còn đưa ra những chỉ dẫn cho thách thức liên quan đến đức tin và đời sống của một người truyền thông. Hồng y Martini chia các suy tư của mình thành ba chương với các tiêu đề: 1. Nhìn, 2. Lắng nghe và chiêm niệm, 3. Hành động. Tất cả đều là những yếu tố quan trọng cho linh đạo của một người truyền thông Kitô giáo.

1. Nhìn

Ở đây, Hồng y Martini chỉ ra những trở ngại của việc truyền thông thực sự thông qua “ý muốn chiếm hữu, thống trị, sử dụng, đồng nhất mọi thứ với bản thân mình”, tất cả đều là “sự nhại lại của truyền thông chân thật” (số 16). Linh đạo của một người truyền thông Kitô giáo kêu gọi mở lòng mình: “Chúa Giêsu, Đấng làm cho người điếc nghe và người câm nói (Mc. 7:37) đến với chúng ta như một vị thầy của truyền thông nếu chúng ta mở lòng đi theo Ngài trên con đường hy vọng mà Ngài đề xuất cho chúng ta” (số 17).

2. Lắng nghe và chiêm niệm

Kinh nghiệm của Lễ Ngũ Tuần mà Hồng y Martini gọi là “Tin Mừng Truyền thông” đã “khơi dậy một khả năng truyền thông phi thường” (số 19). Như giao ước trong Cựu Ước (Xuất Hành 19,1-7), kinh nghiệm này cho thấy rằng “Thiên Chúa muốn đi vào mối hiệp thông với dân Ngài, muốn truyền thông với họ trong linh đạo tương hỗ và thuộc về nhau.” Truyền thông này là một “sáng kiến tự do và không vụ lợi của Thiên Chúa hằng sống.” Nó “kêu gọi một sự đáp lại tự do và biết ơn của đức tin” (số 20), và đây là một yếu tố quan trọng khác trong linh đạo của người truyền thông Kitô giáo. Người ấy phải lắng nghe và đáp lại lời của Thiên Chúa nhưng luôn có nguy cơ từ chối món quà của Thiên Chúa. Martini nhận thấy rằng bước đầu tiên của sự từ chối này là sự ngờ vực, “nỗi sợ rằng người khác không truyền thông một cách không vụ lợi, mà có một số động cơ hoặc kế hoạch ẩn giấu.” Ẩn sâu bên dưới của điều này chính là “sự thiếu tin tưởng vào tính không vụ lợi và chân thành của hành động truyền thông.” Nó có thể bắt đầu bằng một sự nghi ngờ như Adam: ‘Có thật Thiên Chúa đã nói…?’ (Sáng Thế 3:1), chia rẽ “khỏi Thiên Chúa, người với người, nhóm với nhóm, gieo rắc sự nghi ngờ rằng người khác muốn tự đề cao mình…”

Linh đạo của người truyền thông Kitô giáo phải dựa trên thực tế rằng “tất cả các mối quan hệ nhân loại cần thấm nhập bởi sự vô vụ lợi, sự cho đi nhưng không đến từ trên cao, từ mầu nhiệm tình yêu ân cần của Thiên Chúa, từ mầu nhiệm cái chết của Chúa Giêsu vì chúng ta, chịu đau khổ vì tình yêu thuần khiết và không vì động cơ nào khác, từ món quà của Chúa Thánh Thần” (số 22).

3. Hành động

Hồng y Martini nhìn nhận hành động của người truyền thông Kitô giáo dưới ánh sáng của những suy tư này gần như là một cuộc kiểm điểm lương tâm cho người truyền thông Kitô giáo. Người ấy phải làm rõ những định hướng cơ bản của mình và nội tâm hóa thực tế của người truyền thông Kitô giáo đã được cứu chuộc. Dựa trên những suy tư này, ngài đề xuất các nhóm câu hỏi sau đây mà chỉ được chỉ định bằng phần mở đầu của bài trình bày của ngài:

1.      “Tôi thấy những dấu hiệu nào trong mình của những trở ngại trong việc truyền thông…?

2.      Tôi sẽ cho điểm bao nhiêu cho sự truyền thông của chúng ta trong gia đình…?

3.      Từ quan điểm của tôi, tôi sẽ mô tả những khó khăn trong việc truyền thông giữa các tầng lớp xã hội khác nhau mà tôi có liên hệ trực tiếp, đặc biệt là trong nơi làm việc của tôi như thế nào…?

4.      Tôi sẽ đánh giá mối quan hệ của mình trong cộng đồng Kitô giáo như thế nào…?

5.      Tôi có đôi khi cảm thấy hối tiếc vì không biết cách truyền thông hoặc sự bực bội vì không thành công trong việc truyền thông…?

6.      Tôi có cầu nguyện rằng Chúa sẽ truyền thông chính Ngài cho tôi và chữa lành các mối quan hệ nhân loại của tôi…?

7.      Tôi có giữ trước mắt mình nguyên tắc này: rằng chúng ta cần điên rồ trong tình yêu và truyền thông…?” (số 41-47)

Sau những câu hỏi này, ngài đề xuất người truyền thông đọc lại các đoạn văn về Lễ Ngũ Tuần và kinh nghiệm Giao Ước, chuẩn bị cho bí tích Hòa giải và thờ phượng trước Thánh Thể. Ngài đề xuất người truyền thông phó thác bản thân mình cho Ba Ngôi và tin tưởng vào thời gian của Thiên Chúa, yêu và đọc Kinh Thánh như cuốn sách về truyền thông của Thiên Chúa, cảm nhận niềm đam mê Phúc Âm của Chúa Giêsu và phó thác bản thân mình cho Đức Maria (số 48-56).

 II. Dựa Trên Thần Học Truyền Thông

Linh đạo của người truyền thông Kitô giáo không chỉ là một linh đạo cá nhân hóa hay là những bài tập đạo đức về một số đức tính. Thay vào đó, linh đạo này dựa trên một nền thần học vững chắc, nhìn toàn bộ thần học dưới góc nhìn của truyền thông (Dulles 1992, 22; Plude 2001; Eilers 2002, 41-60; 2004, 17-29; Soukup 2002; Palakeel 2003) và chính người truyền thông là một phần sống động của sự truyền thông đó. Ở đây, truyền thông trở thành một ‘nguyên lý thần học’: Ba Ngôi Thiên Chúa, mặc khải, nhập thể và Giáo hội đều được nhìn dưới góc độ truyền thông. Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha và Con truyền thông trong Chúa Thánh Thần và chúng ta được tạo dựng theo ‘hình ảnh và giống như’ Chúa Ba Ngôi. Vì điều này, chúng ta có khả năng truyền thông. Toàn bộ thần học Kinh Thánh quan tâm đến các cách thức và phương tiện của một Thiên Chúa truyền thông ‘nói’ với dân Ngài bằng nhiều cách khác nhau (x. Hr 1:1). Đỉnh cao của sự phát triển này là sự nhập thể của Chúa Giêsu Kitô, nơi Thiên Chúa truyền thông với chúng ta qua Con Ngài như là “người truyền thông hoàn hảo” (Communio et Progressio 11).

Linh đạo Kitô giáo cho người truyền thông nghiên cứu và suy ngẫm trong mặc khải về các cách thức và phương tiện truyền thông của Thiên Chúa với dân Israel, và rút ra những hệ quả từ đó cho việc truyền thông của chính mình:

·         Thiên Chúa nói chuyện với Adam và Eva và những người khác như Cain trong truyền thông cá nhân: “Ngươi ở đâu? Abel, em của ngươi đâu?” (St 3,9).

·         Ngài sử dụng đối thoại nhân loại như trong lời than phiền của Giêrêmia (20:7-9): “Ngài đã quyến rũ con và con đã bị lừa, Ngài đã chế ngự con và đã thắng…”.

·         Ngài gọi các ngôn sứ và các vua theo cách nhân loại và gửi họ đi kèm với các biểu tượng như việc xức dầu.

·         Ngài nói chuyện với Mô-sê “mặt đối mặt” theo cách mà mặt ông trở nên sáng chói và không thể nhìn bằng mắt thường (Đnl 34:10).

·         Ngài hiện ra với ngôn sứ Êlia trên núi Horeb không phải trong cơn gió mạnh, cũng không phải trong trận động đất hay lửa mà trong làn gió nhẹ của sự im lặng (1 V 19:11-13).

·         Ngài bày tỏ sự giận dữ của mình: “Ta sẽ xóa sạch loài người mà Ta đã tạo dựng khỏi mặt đất…” (St 6:7).

·         Ngài hiện ra trong sấm sét, với đám mây dày đặc trên núi và tiếng kèn vang dội (Xh 19,16).

Tóm lại, Thiên Chúa sử dụng mọi cách thức và phương tiện truyền thông của con người được nhúng trong văn hóa của người dân.

Trong mầu nhiệm nhập thể, Chúa Giêsu Kitô là “người truyền thông hoàn hảo” và các cách thức và phương tiện truyền thông của Ngài là tấm gương để người truyền thông Kitô giáo noi theo trong cuộc sống và hành động của mình:

·         Ngài truyền thông qua các hoàn cảnh của cuộc sống như sự sinh ra trong máng cỏ, sự im lặng trong thời gian lớn lên ở Nazareth và 40 ngày trong sa mạc, nhưng cũng qua cái chết trên thập giá.

·         Ngài truyền thông ở mọi nơi Ngài đi và ở, như trên các con đường, trên biển, trên núi, trong nhà và trong đền thờ, qua lời nói và hành động.

·         Ngài truyền thông qua những câu chuyện và dụ ngôn, luôn bắt đầu câu chuyện của mình bằng những trải nghiệm cuộc sống của những người xung quanh Ngài, những người quen thuộc với người gieo giống, những ngư dân, người nội trợ, vua và các tôi tớ của ông, nhưng cũng với góa phụ và người mẹ đang khóc thương con mình.

·         Ngài áp dụng mọi hình thức truyền thông trong mối quan hệ với mọi người: Ngài nói chuyện trong truyền thông cá nhân thân mật với Nicôđêmô, người phụ nữ Samari và các chị em của Lazarô. Ngài chia sẻ trong truyền thông nhóm với các tông đồ, nhưng cũng trong nhóm nhỏ hơn như các khách dự tiệc cưới hoặc những người tham gia bữa ăn.

·         Ngài giảng dạy và truyền đạt với đám đông từ trên núi, bờ biển và trên thuyền.

·         Ngài không sợ ‘xúc phạm’ người khác nếu họ không theo Thiên Chúa như các Pharisêu và kinh sư, nhưng cũng thách thức các môn đệ của mình.

·         Ngài truyền thông theo cách rất đặc biệt và độc đáo qua cuộc khổ nạn và thập giá của Ngài.

Bất kỳ linh đạo nào của người truyền thông Kitô giáo cũng phải dựa trên sự suy ngẫm, chiêm niệm và nội tâm hóa những sự kiện này. Điều này đòi hỏi một đời sống cầu nguyện và chiêm niệm, nơi mà tất cả các hoạt động bên ngoài đều phát xuất từ một kinh nghiệm linh đạo và nội tâm.

Thần học Truyền thông cũng cho thấy rằng bản chất của Giáo hội và sứ mệnh của Giáo hội là tiếp tục sự truyền thông của Ba Ngôi, của Mặc khải và đặc biệt là của sự Nhập thể vào trong hiện tại của con người thời đại chúng ta. Vì vậy, không chỉ các kỹ thuật và khả năng hiện đại mới là điều quan trọng, mà còn là kinh nghiệm và kiến thức về đức tin. Đây là khởi đầu của bất kỳ truyền thông Kitô giáo nào. Một người có linh đạo thuyết phục như Mẹ Teresa thành Calcutta là một người truyền thông tốt hơn và hiệu quả hơn, nơi mà Chúa Thánh Thần tỏa sáng qua, so với một người chỉ sử dụng các kỹ thuật mới nhất. Nếu không có một sự hiệp thông nội tâm và một thông điệp phát triển từ kinh nghiệm cầu nguyện và đức tin, người truyền thông Kitô giáo không thể thực sự ‘truyền tải’ sự kiện và ứng dụng của sự cứu chuộc một cách trực tiếp hay gián tiếp vào cuộc sống của mọi người.

III. Linh đạo Truyền Thông Như Sự Mở Lòng [1]

Linh đạo truyền thông bắt đầu bằng kinh nghiệm và lửa của Chúa Thánh Thần, Đấng muốn bày tỏ và chia sẻ sự viên mãn của Ngài với mọi người. Bất kỳ sự truyền thông Kitô giáo nào, đặc biệt là truyền thông mục vụ và truyền giáo, đều chia sẻ một cách đặc biệt Thần Khí của Chúa Giêsu Kitô đến những người cần thiết. Một linh đạo truyền thông như vậy đòi hỏi sự mở lòng trên ba phương diện cơ bản, đó là: 1. mở lòng với Thiên Chúa, 2. mở lòng với chính mình và 3. mở lòng với người khác.

1. Mở Lòng Với Thiên Chúa

Mở Lòng Với Thiên Chúa và Thần Khí Người bắt đầu với kinh nghiệm bản thân về Chúa Giêsu trong cầu nguyện, suy niệm Kinh Thánh, kinh nghiệm về Thần Khí Người trong việc cử hành chung Phụng vụ và đời sống cộng đoàn. Sự mở lòng này với Thần Khí là điều kiện tiên quyết cho mọi linh đạo truyền thông, như lời Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II khẳng định trong thông điệp của ngài nhân Ngày Truyền Thông Thế Giới 1998: “Các nhà truyền thông Kitô giáo phải là những con người cầu nguyện với đầy Thần Khí, ngày càng đi sâu hơn vào sự truyền thông với Thiên Chúa để lớn lên trong khả năng nuôi dưỡng sự truyền thông giữa đồng loại. Họ phải được Chúa Thánh Thần dạy dỗ về lòng trông cậy, vì Người là tác nhân của việc rao giảng Tin Mừng.”

Trong một thái độ mở lòng như thế, linh đạo truyền thông mục vụ cũng giống như linh đạo truyền giáo, với các yếu tố được ĐGH Gioan Phaolô II vạch ra trong Thông điệp Truyền giáo Redemptoris Missio (1990):

a.  Linh đạo truyền thông trước hết và trên hết được diễn tả “bởi một đời sống hoàn toàn dễ dạy với Chúa Thánh Thần. Nó đòi chúng ta phải được Thần Khí uốn nắn bên trong để ngày càng trở nên giống Đức Kitô hơn. Không thể nào làm chứng cho Đức Kitô mà không phản ánh hình ảnh Người, được ân sủng và sức mạnh của Thần Khí làm sống động trong chúng ta. Thái độ dễ dạy đối với Thần Khí cho chúng ta đón nhận các ơn sức mạnh và khôn ngoan, là những yếu tố cơ bản của linh đạo truyền giáo” (số 87) cũng như một linh đạo truyền thông đích thực. Ở điểm này các Tông Đồ của Chúa có thể là một mẫu gương cho chúng ta: “Tuy họ rất yêu mến Chúa và quảng đại đáp lại tiếng gọi của Người, họ vẫn tỏ ra không có khả năng hiểu được những lời của Người và không sẵn sàng đi theo Người trên con đường đau khổ nhục nhã. Thần Khí đã biến đổi họ thành những chứng nhân can đảm cho Đức Kitô và những sứ giả sáng suốt cho lời của Người. Chính Thần Khí đã hướng dẫn họ đi theo những con đường sứ mạng đầy khó khăn và mới mẻ. Ngày nay cũng như trong quá khứ, sứ mạng ấy luôn đầy những khó khăn và phức tạp, chúng ta cần có ơn can đảm và ánh sáng của Thần Khí”.

b. Linh đạo Truyền thông được sống dựa trên “mối hiệp thông thân mật với Đức Kitô. Chúng ta chỉ có thể hiểu hay thi hành sứ mạng nếu chúng ta qui nó về Đức Kitô như là Đấng được sai đi để rao giảng Tin Mừng,” được sai đi để truyền thông. Sự nhập thể và cứu chuộc của Người được Thánh Tông Đồ Phaolô mô tả (Pl 2,5-8) “như là một sự trút bỏ mình hoàn toàn, làm cho Đức Kitô trải nghiệm đầy đủ thân phận con người và chấp nhận trọn vẹn kế hoạch của Cha. Đây là một sự trút bỏ mình thấm nhuần tình yêu và diễn tả tình yêu” (RM 88). Một người truyền thông Kitô giáo trong hoạt động truyền thông mục vụ và truyền giáo phải kết hợp và hiệp thông sâu xa với hành vi trút bỏ mình này của Đức Kitô, để thể hiện việc truyền thông như là “hành vi hiến mình trong tình yêu,” như cách diễn tả của Communio et Progressio (1971, 11; cũng xem Ep 5,25). Vì vậy người truyền thông mục vụ và truyền giáo phải “từ bỏ mình và tất cả những gì mà từ trước đến nay mình vẫn coi là của mình, và làm cho mình trở nên mọi sự cho mọi người” (AG 24). Có nghĩa là họ phải hiến mình hoàn toàn cho những người mà họ truyền thông.

c.  Linh đạo truyền thông để phục vụ hoạt động truyền thông mục vụ và truyền giáo còn được nổi bật vì đức ái tông đồ, là “đức ái của Chúa Kitô, Đấng đến để ‘quy tụ các con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối’ (Ga 11,52), đức ái của người mục tử tốt lành biết các chiên của mình, đi tìm kiếm chúng và thí mạng mình vì chúng (x. Ga 10). Người truyền giáo được thúc đẩy bởi ‘nhiệt tình vì các linh hồn’, một nhiệt tình được gợi hứng từ đức ái của chính Đức Kitô, được biểu hiện bằng sự quan tâm, dịu dàng, cảm thông, cởi mở, sẵn sàng phục vụ và quan tâm tới các vấn đề của dân. Tình yêu của Đức Giêsu rất sâu: Người là Đấng ‘biết rõ lòng dạ con người’ (Ga 2,25), Người đã yêu thương mọi người bằng cách ban cho họ ơn cứu độ và Người đau khổ khi ơn cứu độ này bị từ chối”. Giống như người truyền giáo, người truyền thông Kitô giáo là “con người của đức ái. Để rao giảng cho mọi anh chị em mình rằng họ được Thiên Chúa yêu thương và có khả năng yêu thương, người truyền thông phải biểu lộ tình yêu đối với mọi người, hiến mạng sống mình cho mọi người. Người truyền giáo là ‘người anh em của mọi người’, mang nơi mình tinh thần của Hội Thánh, thái độ cởi mở và quan tâm của Hội Thánh đối với mọi dân tộc và mọi cá nhân, đặc biệt những anh chị em hèn mọn và nghèo khổ nhất. Bằng thái độ ấy, họ vượt qua được những rào cản và phân cách về chủng tộc, giai cấp hay ý hệ. Họ là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa trong thế giới - một tình yêu không loại trừ hay thiên vị một ai” (RM 89).

d. Sau cùng, linh đạo của người truyền thông là một lời kêu gọi vươn tới sự thánh thiện bản thân. Họ chỉ là một người truyền thông Kitô giáo đích thực nếu họ dấn mình vào việc này và nếu tất cả hoạt động truyền thông của họ tuôn trào từ sự dấn mình này. “Sự thánh thiện phải được gọi là một điều kiện nền tảng và không thể thay thế đối với mọi người trong việc hoàn thành sứ mạng cứu rỗi trong Hội Thánh” (Christifideles Laici, 1988, 17). Lời kêu gọi mọi người phải vươn tới sự thánh thiện là một thách thức đặc biệt đối với những người truyền thông Kitô giáo. Họ phải hằng ngày cố gắng canh tân bản thân trong Thần Khí và ngày càng đi sâu hơn trong sự quý chuộng Kinh Thánh và “cũng cố gắng cập nhật việc huấn luyện giáo thuyết và mục vụ của họ” (RM 91).

e. Contemplata Tradere, truyền đạt điều mình suy niệm, là châm ngôn và sứ vụ của Dòng Giảng Thuyết (Đaminh). Mọi người truyền thông Kitô giáo cũng phải làm như vậy. Thánh Inhaxiô Loyôla, sáng lập Dòng Tên, là người đầu tiên được gọi là nhà chiêm niệm trong hành động. Chiêm niệm trong hành động cũng là điều Đức Gioan Phaolô II đòi hỏi nơi người truyền giáo. Một người truyền thông Kitô giáo muốn xứng với tên gọi này cũng phải có thái độ như vậy. Theo Đức Gioan Phaolô II (RM 91), một ‘người chiêm niệm trong hành động’ là người “tìm thấy câu trả lời cho các vấn đề trong ánh sáng của lời Chúa và trong kinh nguyện cá nhân và cộng đoàn. Các tiếp xúc của tôi với đại diện của các truyền thống thiêng liêng ngoài Kitô giáo, đặc biệt các truyền thống ở Châu Á, đã xác nhận cho tôi quan điểm rằng tương lai của truyền giáo tuỳ thuộc một phần rất lớn vào chiêm niệm. Trừ khi người truyền giáo là một người chiêm niệm, họ không thể nào rao giảng Đức Kitô một cách đáng tin được. Họ là một chứng nhân về kinh nghiệm Thiên Chúa, và họ phải có thể nói như các tông đồ: ‘điều chúng tôi đã thấy tận mắt... về Lời sự sống... chúng tôi loan báo cho anh em’ (1 Ga 1,1-3)”. Lời Đức Thánh Cha nói ở cuối Thông điệp của ngài cũng áp dụng cho người truyền thông Kitô giáo: “Nét đặc trưng của mọi cuộc đời truyền giáo đích thực là niềm vui bên trong phát xuất từ đức tin. Trong một thế giới bị dằn vặt và đè bẹp bởi quá nhiều vấn đề, một thế giới bị cám dỗ bởi thái độ bi quan, thì người loan báo ‘Tin Mừng’ phải là một người đã tìm thấy niềm hy vọng thực sự trong Đức Kitô” (số 91).

2. Mở lòng với chính mình

Sự mở lòng của người truyền thông Kitô giáo với Thiên Chúa cũng được phản ánh qua sự mở lòng ra với chính mình và với các nhu cầu riêng của mình. Chỉ ai biết đối diện với thực tế của bản thân mình mới có thể là một đối tác truyền thông với Thiên Chúa và với tha nhân. Người ta muốn truyền thông với một con người cụ thể, quân bình, trưởng thành, đầy Thánh Thần và có trách nhiệm, chứ không phải với những con phỗng vô tri vô giác hay với những người quá bị giày vò bởi các rắc rối của bản thân mình. Vì vậy, người truyền thông Kitô giáo phải quan tâm tới đời sống và sự trưởng thành thiêng liêng cũng như phát triển nhân bản của chính mình. Họ cần quí chuộng và phát triển kinh nghiệm về việc linh hướng, cũng là một phần cơ bản của truyền thông mục vụ. Một vị linh hướng giỏi giúp phân định rõ những đường lối của Thánh Thần, khích lệ sự tăng trưởng và cống hiến niềm hi vọng và mục đích trong cuộc đời và sứ mạng. Người truyền thông sáng suốt và có nền tảng Kitô giáo sâu xa sẽ trân trọng và chấp nhận giá trị của một cộng đoàn Kitô giáo, mà trong trường hợp lý tưởng thậm chí có thể là một cộng đoàn các người truyền thông Kitô giáo, sống và tìm kiếm sứ mạng của mình trong cuộc đời. Chính trong thái độ cởi mở đối với tất cả những điều này mà mọi hành động của chúng ta rạng chiếu nền linh đạo đích thực. Một người truyền thông thiêng liêng sẽ dễ dàng được nhận ra và sẽ có thể góp phần vào việc xây dựng “các cộng đoàn bằng tình yêu, chia sẻ, hiệp thông, quan hệ và bình đẳng” (Hội nghị các Giám mục FABC-OSC 1999).

3. Mở lòng với người khác

Sự mở lòng với Thiên Chúa và với bản thân mình dẫn tới sự mở lòng với người khác, trong việc lắng nghe các câu truyện và kinh nghiệm của họ, các nhu cầu và nguyện vọng của họ, chia sẻ các kinh nghiệm đức tin, tạo dựng và nâng đỡ các cộng đoàn. Đây là nguồn mạch cho đời sống thiêng liêng của người truyền thông. Trong khi dấn thân cho hoạt động truyền thông, họ cần được sự nuôi dưỡng và nâng đỡ của cộng đoàn. Không phải vô cớ mà hai từ ‘cộng đoàn’ (community) và ‘truyền thông’ (communication) có cùng từ gốc Latinh là communis, nghĩa là ‘chung’. Khi đào sâu ý nghĩa các từ này, Gisbert Greshake (2002, 6f) thấy trong gốc của từ này nguyên thuỷ có hai khía cạnh. Nó đến từ gốc “mun” có nghĩa là một cái gì giống như một khối, hay một bức tường bao quanh. Những người sống trong hiệp thông, trong quan hệ truyền thông, thì “cùng nhau ở sau cùng một bức tường”, cùng nhau ở cùng một chỗ và cùng một môi trường, ở đó mọi người lệ thuộc lẫn nhau. Nghĩa thứ hai cũng dựa trên cùng một gốc “mun” như được phản ánh trong từ Latinh munus nghĩa là quà tặng, phục vụ, và dấn thân. Nó cho thấy người truyền thông sống để phục vụ người khác, chia sẻ bản thân và mọi sự của mình để từ đó phát triển một cái gì chung, đó là cộng đoàn.

Linh đạo truyền thông vì vậy không chỉ là linh đạo cá nhân mà còn là linh đạo cộng đoàn. Kinh nghiệm cộng đoàn trong Kinh nguyện, Thánh Thể và đời sống bí tích, trong chia sẻ Kinh Thánh và đời sống chung, kinh nghiệm ấy nuôi dưỡng và tạo sức mạnh, đặc biệt trong những tình huống truyền thông khó khăn. Chính từ điểm này mà người truyền thông Kitô giáo cảm thấy mình đặc biệt gắn chặt với các nhu cầu của người khác và vì vậy, trong nhiều trường hợp, họ trở thành ‘tiếng nói của những người không có tiếng nói’.

Đặc biệt tính sáng tạo nhân bản và truyền thông vượt trên các phương tiện kỹ thuật chính là cái được nuôi dưỡng nhờ linh đạo sâu xa hơn của cá nhân và cộng đoàn. Trong một thông điệp gửi Đại hội Thế giới các tổ chức Công giáo Quốc tế về Truyền thanh và Phim ảnh (Unda/OCIC) tại Montreal 1998, Hồng y Angelo Sodano từ Văn phòng Quốc vụ khanh Vatican đã nhân danh ĐTC viết (ngày 14-7) đích thị về mối quan tâm này. Sau khi nhắc đến “sự sáng tạo kỳ diệu về kỹ thuật” trong thế giới các phương tiện truyền thông thời gian gần đây, ngài đòi rằng chúng “cần được đi đôi với một sự sáng tạo khác mang tính chất thiêng liêng chân chính. Sự sáng tạo thiêng liêng chân chính nhấn mạnh ‘sự ưu tiên của đạo đức trên kỹ thuật, sự trổi vượt của con người trên sự vật, sự siêu việt của tinh thần trên vật chất’ (Redemptoris Hominis, 16). Nó mở con người ra với mầu nhiệm là cốt tuỷ của mọi sự vật, mở ra với cái tốt, cái thật và cái đẹp là những điều mà mọi người khao khát. Nó mở ra các tầng trời để thấy được niềm hy vọng, và như thế nó dự phần vào sự sáng tạo của Thiên Chúa. Sự sáng tạo này đòi những người Công giáo đang dấn thân trong hoạt động truyền thông hã hội phải có một trình độ chuyên môn đầy đủ trong một lĩnh vực đang phát triển quá nhanh. Nó cũng đòi hỏi họ một trí tưởng tượng có chất lượng - khả năng nhìn thế giới không chỉ như nó hiện có mà như nó sẽ có thể là gì, và nhờ đó cống hiến những tầm nhìn tiềm năng để nuôi hy vọng. Theo nghĩa này, người truyền thông Công giáo cần phải là một nghệ nhân có khả năng phá vỡ những nhận thức cũ và chán nản về thế giới để sinh ra những nhận thức mới đầy hi vọng. Về phần mình, trí tưởng tượng có chất lượng này đòi hỏi một sự thánh thiện đích thực - một sự mở lòng ra với mầu nhiệm Thiên Chúa và một sự gần gũi Đức Kitô như là Đấng mà trong vinh quang của Người cái tốt, cái thật và cái đẹp đạt được sự sung mãn của chúng. Sau cùng, một sự ‘thánh thiện’ dựa trên sự gần gũi Đức Kitô đòi hỏi người truyền thông Công giáo một phẩm chất can đảm, giúp họ rao giảng Tin Mừng trong một thế giới thường tỏ ra dửng dưng và có khi thù nghịch ra mặt. Nếu những người truyền thông Công giáo tìm được những ngôn từ và những hình ảnh đúng để rao giảng Tin Mừng, thì ngay cả những người dửng dưng và thù nghịch cũng có thể nhận ra những gì được cống hiến cho họ, một tiếng nói sáng tạo thực sự thấm vào tận những khát vọng thâm sâu nhất của họ”.

Trong thái độ cởi mở với tha nhân, “Đức Ái Tông Đồ” - cũng là kết quả của sự mở lòng ra với Thiên Chúa - được diễn tả một cách đặc biệt cho người linh mục và cả cho người truyền thông mục vụ bằng điều mà Đức Gioan Phaolô II gọi là ‘Đức Ái Mục Tử”. Trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis (số 24), ngài mô tả nội dung cơ bản của Đức Ái Mục Tử là “nhân đức mà nhờ đó chúng ta bắt chước Đức Kitô trong sự hiến mình và phục vụ. Không chỉ là những việc chúng ta làm, nhưng chính sự hiến mình của chúng ta bộc lộ tình thương của Đức Kitô đối với đàn chiên của Người. ‘Đức Ái Mục Tử’ xác định cách chúng ta suy nghĩ và hành động, cách chúng ta quan hệ với người khác. Nó có những đòi hỏi đặc biệt đối với chúng ta...”. Đối với các linh mục, và cũng có thể áp dụng cho mọi người truyền thông mục vụ, Đức Thánh Cha bảo đảm rằng ‘Đức Ái Mục Tử’ như một nguyên lý năng động nội tại “có khả năng thống nhất nhiều hoạt động khác nhau của người linh mục. Nhờ nguyên lý nội tại này... họ có thể đáp ứng thích hợp sự đòi hỏi cơ bản và thường xuyên về sự thống nhất giữa đời nội tâm của linh mục và các hoạt động bên ngoài cùng với các bổn phận thừa tác vụ của họ, một đòi hỏi đặc biệt cấp bách trong một bối cảnh văn hoá-xã hội và giáo hội chứa đầy sự phức tạp, manh mún và phân tán”.

Kết luận

Với sáng kiến của Carlo Martini để thành lập tại Đại học Gregorian một phần đặc biệt về truyền thông xã hội, linh đạo dựa trên Kinh Thánh của ngài cũng là một món quà quý báu cho Trung tâm Liên ngành về Truyền thông Xã hội. Trong những năm đầu tiên, chương trình này có liên quan chặt chẽ đến các khoa Truyền giáo học, Triết học và sau đó đặc biệt là Xã hội học. Có lẽ sau 25 năm, sẽ tốt hơn nếu hợp tác thêm với Viện Linh đạo của trường đại học. Một trường đại học Công giáo như Gregorian nên đặc biệt quan tâm đến linh đạo truyền thông và người truyền thông trong thời đại mà chủ nghĩa tiêu dùng, chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa vật chất dường như chiếm ưu thế trong lĩnh vực truyền thông.

Phụ lục cho phiên bản chỉnh sửa ngoài Đại học Gregorian

Trải nghiệm về Chúa Kitô

Linh đạo của một Người Truyền Thông Kitô giáo được nuôi dưỡng qua trải nghiệm Chúa Kitô trong cộng đồng và cuộc sống cá nhân, coi đó là những yếu tố thiết yếu. Trải nghiệm về cộng đồng Kitô giáo mang lại ân sủng của các bí tích và đời sống phụng vụ cũng như đời sống xã hội. Hướng dẫn Mục vụ Communio et Progressio đặt Thánh Thể ở trung tâm của sự truyền thông Kitô giáo, và điều này cũng đúng trong linh đạo của người truyền thông. “Trong việc thiết lập Thánh Thể, Chúa Kitô đã ban cho chúng ta hình thức hiệp thông hoàn hảo nhất, thân mật nhất giữa Thiên Chúa và con người có thể có trong cuộc sống này và từ đó tạo ra sự hiệp nhất sâu sắc nhất giữa con người với nhau.” Chỉ từ đây, sự truyền thông như là “sự trao ban Tình Yêu” (Communio et Progressio 11) mới có thể phát triển, bắt nguồn và phản ánh trong và qua cộng đồng Kitô giáo. Các bí tích và phụng vụ được cử hành trong cộng đồng mà Người Truyền Thông Kitô giáo là một phần. Đây là nơi đời sống tâm linh của họ được nuôi dưỡng và cũng là nơi họ có thể mong đợi sự hỗ trợ xã hội và đạo đức trong nhiệm vụ rất khó khăn của mình (x. Communio et Progressio 73-78).

Tuy nhiên, họ cũng chia sẻ tài năng và kiến thức của mình trong lĩnh vực truyền thông chuyên nghiệp. Trong trách nhiệm này, họ phải được cộng đồng Kitô giáo hỗ trợ và làm nền tảng. Chính vì điều này mà các tài liệu của Giáo hội về Truyền thông Xã hội yêu cầu sự chăm sóc mục vụ cho những người truyền thông. Communio et Progressio tuyên bố rằng “Những người truyền thông có quyền mong đợi sự giúp đỡ tâm linh phù hợp với những nhu cầu đặc biệt của vai trò quan trọng nhưng khó khăn của họ…” (số 104). Tài liệu tiếp theo Aetatis Novae (1991, số 19) giải thích thêm về trách nhiệm của Giáo hội: “phát triển và cung cấp các chương trình chăm sóc mục vụ đặc biệt để đáp ứng các điều kiện làm việc đặc thù và thách thức đạo đức mà các chuyên gia truyền thông phải đối mặt…” Ngược lại, những Người Truyền Thông Kitô giáo cũng có thể cung cấp một dịch vụ đặc biệt cho cộng đồng mà họ xuất phát. Họ có thể quảng bá các hoạt động cộng đồng, kích thích sự hợp tác và khuyến khích giới trẻ phát triển sự quan tâm đặc biệt và thái độ truyền thông đối với người khác trong và ngoài thế giới truyền thông.

Dựa trên trải nghiệm đức tin trong cộng đồng, linh đạo của Người Truyền Thông Kitô giáo cũng đòi hỏi sự cam kết cá nhân với Chúa Kitô trong một mối quan hệ cá vị đặc biệt, điều này được phản ánh trong đời sống cầu nguyện cá nhân. Cầu nguyện có nghĩa là giao tiếp toàn bộ cuộc sống và mọi mối quan tâm của chúng ta với Chúa Giêsu Kitô mà không có bất kỳ sự dè dặt và ngoại lệ nào. Cuối cùng, Chúa Giêsu phải là trung tâm của cuộc sống chúng ta và mọi hành động của chúng ta. Những gì chúng ta viết và truyền thông phải đã được thảo luận trước với Chúa trong cầu nguyện. Bằng cách này, tất cả các hoạt động đều xuất phát từ một trung tâm được lấp đầy bởi Thánh Thần của Chúa Kitô. Thánh Thần này được phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp đến những người xung quanh chúng ta. Để duy trì và phát triển một cuộc sống như vậy, sẽ hữu ích hoặc thậm chí cần thiết có một linh hướng và người bạn đồng hành để khuyến khích và phân định lẫn nhau.

Linh đạo như một trung tâm năng động

Trong lịch sử nghiên cứu truyền thông, đã có nhiều nỗ lực để phát triển các mô hình truyền thông nhằm làm rõ hơn dòng chảy, động lực và hiệu quả của quá trình truyền thông. Nhiều mô hình đặc biệt quan tâm đến người gửi và nỗ lực của họ để tiếp cận người nhận một cách hiệu quả. Những mô hình truyền thông tuyến tính với Người Gửi, Thông Điệp, Người Nhận là các yếu tố chính đã tồn tại từ lâu. Các mô hình khác như 'mô hình hội tụ' của Everett Rogers và Kincaid hoặc mô hình nghi lễ của James Carey đặc biệt quan tâm đến sự hợp tác trong quá trình truyền thông để phát triển một nền tảng chung về sự hiểu biết và trải nghiệm.

Khác với tất cả những điều này là Mô hình Truyền thông Kitô giáo được phát triển tại Đại học Santo Tomas ở Manila. Mô hình này dựa trên giáo lý của Thánh Augustine và đặt thông điệp ở trung tâm của quá trình truyền thông. Đối với người truyền thông Kitô giáo, thông điệp luôn là trung tâm, đó là Lời Chúa hoặc chính Chúa Giêsu Kitô là Lời Chúa nhập thể. Người truyền thông Kitô giáo chỉ là người truyền tải LỜI, giống như một đại sứ đại diện cho đất nước của mình. Càng không chỉ truyền thông mà còn sống và phản ánh trong cuộc sống của mình LỜI này, người ấy càng thuyết phục hơn như một người truyền thông. Điều này không phụ thuộc vào kỹ thuật mà phụ thuộc vào linh đạo của người truyền thông. Càng được lấp đầy bởi Thánh Thần của Chúa, người ấy càng là người truyền tải và phản ánh thông điệp một cách thuyết phục.

Điều này có nghĩa là trong thực tế: càng suy ngẫm và chiêm nghiệm Lời Chúa trong Kinh Thánh, càng lắng nghe những gợi ý của Thánh Thần, người ấy càng trở thành một người truyền thông Kitô giáo thực sự. Mô hình Truyền thông Kitô giáo: Thông điệp - người truyền tải - người nhận nhắc nhở chúng ta về trung tâm thực sự cho bất kỳ linh đạo nào của một Người Truyền Thông Kitô giáo. Nó phản ánh thực tế Kitô giáo về sự mặc khải, nhập thể và vai trò thực sự của người truyền thông như một người phục vụ và người hoàn toàn phục vụ cho thông điệp. Không phải người ấy là người 'gọi những cú sút' mà chính Chúa là thông điệp và Thánh Thần của Ngài.

Tài liệu tham khảo

1.      Dulles, Avery: 1992    The Craft of Theology. From Symbol to System. Dublin (Gill and Macmillan)

2.      Eilers, Franz-Josef: 2002 Communicating in Community. Introduction to Social Communication. Third enlarged edition. Manila (Logos)

3.      Eilers, Franz-Josef: 2004 Communicating in Ministry and Mission. An Introduction to Pastoral and Evangelizing Communication. 2nd Edition. Manila (Logos)

4.      Martini, Carlo: 1990 Epheta, Apriti. Milan (Centro Ambrosiano). English Edition: Communicating Christ to the World. Kansas City (Sheed and Ward)

5.      Martini, Carlo: 1994; Philippine Edition 1996 Manila (Claretians)

6.      Palakeel, Joseph (ed): 2003 Towards a Communication Theology. Bangalore (Asian Trading)

7.      Plude, Francis Forde (ed): 2001 Communication Theology. In: Catholic International, Baltimore. Vol. 12, No. 4 (November)

8.      Soukup, Paul: 2002 Communication Theology as a basis for Social Communication Formation. In: Franz-Josef Eilers (Ed.): Social Communication Formation in Priestly Ministry. FABC-OSC Books Vol. 2. Manila (Logos) pp.45-64


[1] Nội dung bản văn gốc của phần III đã được tác giả Franz-Josef Eilers bổ sung thêm, xin tham chiếu bản văn tiếng anh trong “An Introduction to Pastoral and Evangelizing Communication –Communicating in Ministry and Mission, 4th Updated edition. Manila: Logos Pulications, 2018, pp.34-40; kèm thêm bản dịch Việt ngữ của HĐGMVN “Truyền Thông trong Mục vụ và Truyền giáo – Nhập môn về Truyền thông trong Mục vụ và Truyền giáo, bản dịch của ấn bản 2004, trang 39-47).

Chia sẻ