Skip to content
Main Banner
Ngôn ngữ

Lc 1,39-45: Đức Maria Viếng Thăm Bà Elisabeth

BTT OFMVN 01
2024-02-11 09:26 UTC+7 506
Đức Maria đã cưu mang Con Đấng Tối Cao (Lc 1,32), Con Thiên Chúa (Lc 1,35) và sẽ sinh hạ Người ra. Do đó, Mẹ là “Thân Mẫu Đức Chúa”. Như Bà Elisabeth đã trải nghiệm thân phận bất xứng, chúng ta cũng diễn tả kinh nghiệm này qua lời cầu xin: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Chúng ta xin Mẹ Đức Chúa, Mẹ Thiên Chúa, chuyển cầu cho chúng ta. Chúng ta nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Bà Elisabeth chan hòa niềm vui vì Thân Mẫu Đức Chúa đến nhà bà; ...

Lc 1,39-45: Đức Maria Viếng Thăm Bà Elisabeth

Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.

 

Bản Văn Tin Mừng: Lc 1,39-45[1]

39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. 40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. 41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, 42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng:“Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. 45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.

***

1.- Ngữ cảnh

Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, tác giả Luca bố trí ba giai thoại: loan báo Gioan Tiền Hô chào đời (Lc 1,5-25),[2] loan báo Đức Giêsu chào đời (Lc 1,26-38),[3] và Đức Maria đi thăm Bà Elisabeth (Lc 1,39-56).[4] Truyện thứ ba này giả thiết có hai truyện đầu và bổ sung cho hai truyện đó. Truyện thứ ba này đóng vai trò nối kết hai truyện trước, đặc biệt liên kết câu 24-25 với câu 36-37. Đã soạn thảo bài tường thuật về loan báo Gioan Tiền Hô chào đời, sau đó, mô phỏng theo bài ấy mà soạn ra bài nói về loan báo Đức Giêsu chào đời, nay tác giả Luca dùng giai thoại Đức Maria đi thăm viếng Bà Elisabeth để liên kết truyện hai lời loan báo cách chặt chẽ hơn. Câu truyện ở Lc 1,5-24a được tiếp nối với Lc 1,57-66.[5]

Trong giai thoại trước, sứ thần cho biết: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng [episkiasei] trên bà” (Lc 1,35). Tác giả đã mượn lại hình ảnh đám mây sáng che phủ Nhà Tạm (Xh 40,35: “Ông Môsê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu/rợp bóng [epeskiazen] trên đó, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm”), tượng trưng cho sự hiện diện vinh quang của YHWH (Đức Chúa) với Israel để nói về Đức Maria lúc này: Người được coi như là Hòm Bia Giao ước.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

       1/. Đức Maria gặp Bà Elisabeth (Lc 1,39-41);

        2/. Bà Elisabeth ca ngợi Đức Maria (Lc 1,42-45).

3.- Vài điểm chú giải

– Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (42): Trong Cựu Ước, có hai người phụ nữ được chào như thế: Bà Giaên (Tl 5,24) và Bà Giuđitha (Gdt 13,18).[6]

– Đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng… Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (Lc 1,41.42.43): Tác giả Luca đã dựa vào việc vua Đavít chuyển Hòm Bia về Giêrusalem (2Sm 6)1–2 Sb và sách Giuđitha để viết Lc 1,39-56: Đức Maria là “Hòm Bia giao ước” mới cũng đang di chuyển về phía nam (Giuđa).

lc-139-45c-1707618110.jpg

 – Kêu lớn tiếng (42): Động từ “anephônêsen” (reo) chỉ được dùng để chỉ những tiếng tung hô trong phụng vụ (1Sb 16,45.42),[7] và đặc biệt trong cuộc di chuyển Hòm Bia (1Sb 15,28 và 2Sb 5,13).[8]

– Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (42): Ở đây tác giả đặt song đối Đức Maria với Gdt 13,18-19, như thế ám chỉ Đức Giêsu là Thiên Chúa:

lc-139-45d-1707618124.jpg

– Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm tác giả Luca nêu ra để chứng tỏ các lời ngôn sứ đã ứng nghiệm: Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):

– 6 tháng (Lc 1,26.36)[9] kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày.

– 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày.

– 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày.

Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày.

Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24,[10] sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Luca muốn cho thấy rằng, việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh Quang” của Thiên Chúa[11] đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Malakhi (Ml 3,1).[12]

– Em thật có phúc, vì đã tin (45): Nhận định khiến độc giả nghĩ ngay đến Abraham, vị tổ phụ đã mở đầu lịch sử cứu độ bằng hành vi đức tin (x. St 12,1-5).[13]

4.- Ý nghĩa bản văn

Trong cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và Bà Elisabeth, tác giả Luca cho thấy kinh nghiệm của một người phàm lần đầu tiên hiểu ra điều gì đã xảy ra cho Đức Maria và phản ứng khi hiểu được điều ấy. Ở tại trung tâm, có Thiên Chúa và hoạt động của Người đối với Đức Maria, nơi Mẹ mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã được thực hiện.

* Đức Maria gặp Bà Elisabeth (39-41)

Khi đã được biết rằng người chị họ của mình đã mang thai trong tuổi già, Đức Maria đã vội vã đi lên miền núi. Chuyến đi không dễ dàng, nhưng người vẫn vội vã. Có thể nói, với cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa, chuyến đi dài được tác giả của tác phẩm hai tập là Luca và Công Vụ Tông Đồ trình bày dọc theo tác phẩm, đã bắt đầu. Con Thiên Chúa từ trời đã xuống trần gian, rồi Người đi từ Nazaret lên Giêrusalem, còn các môn đệ của Người sẽ đi từ Giêrusalem, qua Samaria, và đến tận cùng trái đất, tất cả các đấng đều vội vã, dù gặp biết bao khó khăn.

Là Hòm Bia của giao ước mới, Đức Maria mang trong lòng mình “Con Đấng Tối Cao” (Lc 1,32), là Đấng mạc khải, là nguồn ơn phúc, là nguyên do đưa lại niềm vui. Đức Maria vội vã đưa Đức Kitô đến với những người khác. Đức Maria đi trong tư cách là người tin vào lời Thiên Chúa qua trung gian sứ thần Gabriel.

* Bà Elisabeth ca ngợi Đức Maria (42-45)

Cuộc gặp gỡ với giữa Đức Maria với Bà Elisabeth nhắc lại cuộc gặp gỡ giữa người với sứ thần Gabriel: cả hai vị đều nhận định người đầy ơn phúc. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người; phúc lành của Thiên Chúa tiếp tục ở trên người. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người cùng với hoa quả lòng người. Phúc lành của Thiên Chúa là quyền lực và sức mạnh làm cho có thể có sự sống và bảo tồn sự sống. Đức Maria là người “được chúc phúc” theo cách đặc biệt: quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa đã làm cho người có khả năng chuyển thông sự sống nhân loại cho Đức Giêsu: Người là Con Thiên Chúa, cũng là Chúa tể sự sống, sẽ chiến thắng cái chết và ban sự sống vĩnh cửu. Tiếng kêu lớn của Bà Elisabeth là một lời ca tụng hành động của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả một nỗi kinh ngạc chan chứa niềm vui đối với Maria, người đã được Thiên Chúa làm cho những việc cao cả như thế.

Bà Elisabeth diễn tả nhận định của bà về cách xử sự của Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Trong Cựu Ước, có hai người phụ nữ được chào bằng những lời này, đó là Bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18). Các bà đã đánh bại các đoàn quân áp bức dân các bà. Kinh Thánh không tường thuật những gì các bà đã làm hầu chuẩn nhận cho chiến tranh, nhưng để cho thấy Thiên Chúa có thể làm những việc kỳ diệu bằng cách dùng những con người không phù hợp về phương diện loài người, những con người không có uy lực. Khi ghi nhận Bà Elisabeth chào Đức Maria như vậy, tác giả Luca bảo chúng ta rằng Đức Maria thuộc về một hạng người, tuy bị coi là không phù hợp, lại được Thiên Chúa dùng mà đưa lại ơn cứu độ cho chúng ta. Qua Đức Maria, Thiên Chúa đã làm một việc phi thường nhất trong lịch sử: Ngài ban cho chúng ta Con của Ngài. Nếu Đức Maria được như thế, thì chỉ do cốt yếu và trước tiên Mẹ là người đã tin. Cách đối xử của Thiên Chúa đối với Đức Maria được diễn tả bằng ân sủng và phúc lành; cách đối xử của Đức Maria đối với Thiên Chúa được diễn tả bằng lòng tin. Đức Maria đã tin vào Thiên Chúa, vào giá trị của lời Người, quyền năng của Người. Đức Maria đã diễn tả niềm tin đó qua tiếng “xin vâng” với sứ điệp của sứ thần. Lịch sử dân Israel mở ra với hành vi đức tin của Abraham; lịch sử cứu độ thế giới mở ra với hành vi đức tin của Đức Maria.

Bà Elisabeth nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (câu 43). Lời này cũng được lấy từ Cựu Ước. Đavít dùng những lời này khi Hòm Bia Giao ước được di chuyển về Giêrusalem. Ông đã reo lên: “Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2Sm 6,9). Có những chi tiết khác liên kết cuộc viếng thăm của Đức Maria với Hòm Bia Giao ước. Cả Đức Maria và Hòm Bia ở lại “ba tháng” trong miền Giuđê; Hòm Bia được đón tiếp trong niềm vui và lễ mừng, và đưa phúc lành đến gia đình đã nhận lấy Hòm Bia (2Sm 6,10-11);[14] khi Đức Maria vào nhà Dacaria, trẻ Gioan (đại diện cho dân Cựu Ước đang trông chờ Đấng Mêsia) đã nhảy lên vui sướng.

Phần Đức Maria, người vẫn tiếp tục sống thân phận nữ tỳ: không chỉ đến thăm Bà Elisabeth, nhưng còn ở lại ba tháng, để phục vụ.

+ Kết luận

Bà Elisabeth gặp Đức Maria. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của một con người với mẹ của Đức Chúa như tác giả Luca mô tả, hoàn toàn đơn giản và thanh thoát. Cuộc gặp gỡ này chan hòa niềm tâm tình phấn khởi và niềm vui tươi hân hoan. Bà Elisabeth tự giới thiệu cho chúng ta như là người đã tôn kính Đức Maria trước tiên. Bằng những lời “em được chúc phúc”“Thân Mẫu Chúa tôi”“em thật có phúc”, bà phác họa những đường nét chính của dung mạo Đức Maria: công trình của Thiên Chúa nơi người, tương quan của người với Chúa Giêsu Kitô, thái độ của người đối với Thiên Chúa. Tất cả những điều này, Bà Elisabeth hiểu được nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng. Cuộc gặp gỡ này đã là cơ hội cho phép bà có một kinh nghiệm hết sức mạnh mẽ và một niềm vui thật chan hòa.

Một điều quan trọng hơn nữa, đó là khi giới thiệu tư cách đặc biệt của Đức Maria, Bà Elisabeth không ngờ đang đưa chúng ta đến chỗ đối diện với Đấng mà Đức Maria đang cưu mang trong lòng: Người không những là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Đấng Tối Cao, mà cũng là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa.

Đàng khác, tác giả Luca muốn chúng ta thấy Đức Maria như là Hòm Bia Giao ước. Thiên Chúa đã chọn không ở trong một tòa nhà, nhưng ở trong lòng dạ một người phụ nữ.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Phần thứ nhất của Kinh Kính Mừng hoàn toàn lấy từ Tân Ước, liên kết các lời nói đầu tiên của thiên thần (“Kinh mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”) với những lời nói đầu tiên của Bà Elisabeth (“Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”). Sứ thần đã gọi Đức Maria là “đầy ơn phúc”; Bà Elisabeth đã gọi người là “có phúc lạ” (= được chúc phúc). Cả hai vị đều diễn tả trước hết quan hệ Thiên Chúa tạo ra với Đức Maria, cách thức Người ngỏ lời với Đức Maria. Tất cả những gì người ta có thể nói về Đức Maria tùy thuộc tương quan này. Đức Maria vui sướng được sống trong tương quan này. Chúng ta có sống với lòng biết ơn trong sự lệ thuộc vào Thiên Chúa chăng?.

2. Đức Maria được bảo là “có phúc” vì người đã tin rằng lời Chúa hứa với người sẽ được hoàn tất (câu 45). Thiên Chúa đã hứa biết bao điều qua các ngôn sứ? Khi thấy rằng các lời hứa của Thiên Chúa chậm được thể hiện, dân nghi ngờ Thiên Chúa. Họ đã đặt niềm tin tưởng vào chính họ, nên đã kết thúc trong thất bại. Đức Maria “có phúc” vì đã tin tưởng vào Thiên Chúa. Mẹ biết rằng cho dù bề ngoài thế nào, Lời Chúa sẽ được thực hiện.

3. Đức Maria đã cưu mang Con Đấng Tối Cao (Lc 1,32), Con Thiên Chúa (Lc 1,35) và sẽ sinh hạ Người ra. Do đó, Mẹ là “Thân Mẫu Đức Chúa”. Như Bà Elisabeth đã trải nghiệm thân phận bất xứng, chúng ta cũng diễn tả kinh nghiệm này qua lời cầu xin: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Chúng ta xin Mẹ Đức Chúa, Mẹ Thiên Chúa, chuyển cầu cho chúng ta. Chúng ta nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Bà Elisabeth chan hòa niềm vui vì Thân Mẫu Đức Chúa đến nhà bà; đồng thời bà biết rằng bà không ở ngang tầm với Thân Mẫu Đức Chúa, nhưng không hề tị hiềm. Bà bày tỏ sự kính trọng đối với Đức Maria. Trong khi đó, Đức Maria, Mẹ Đức Chúa, lại ở lại nhà Bà Elisabeth. Sự kính trọng các khác biệt không chống lại sự hiệp thông thân tình và vui tươi.

4. “Do mầu nhiệm Truyền Tin và Thăm Viếng, Đức Maria chính là điển hình của kiểu sống mà chúng ta phải theo. Trước tiên, người đã đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của người; sau đó, những gì người đã lãnh nhận, người đã chia sẻ. Mỗi lần chúng ta rước lễ, Đức Giêsu là Ngôi Lời trở thành thịt trong cuộc đời chúng ta. Vậy đấy đã là Lễ Tế Tạ Ơn đầu tiên: phần dâng lễ chính là Đức Maria dâng Con của người nơi mình, còn bàn thờ người đã thiết lập là tấm lòng của người. Là người duy nhất có thể khẳng định với một niềm tin tưởng tuyệt đối: “Này là Mình tôi”, kể từ lúc đó, Đức Maria đã dâng chính thân người, sức mạnh của người, toàn thân người, để tạo nên Thân Thể Đức Kitô”.[15]

5. Có Chúa trong mình không chỉ là đặc ân dành riêng cho Đức Maria. Mỗi cộng đoàn và mỗi người trong chúng ta phải trở thành như Đức Maria, một “Hòm Bia Giao ước”. Nhiệm vụ của chúng ta là mang Chúa đến cho người khácâu Một điều có thể bảo cho biết là chúng ta đang là một “Hòm Bia Giao ước”, đó là niềm vui. Bất cứ đi đâu, Đức Maria đều tuôn đổ niềm vui (x. Lc 1,41.42.45-48). Sự hiện diện của chúng ta có đưa niềm vui đến cho người khác không?


[1] Bản Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh.

[2] Lc 1,5-25: Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a ; vợ ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. Nhưng họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên.

Sau đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông: Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. 10 Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài.

11 Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. 12 Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. 13 Nhưng sứ thần bảo ông: “Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. 14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. 15 Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. 16 Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. 17 Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”. 18 Ông Da-ca-ri-a thưa với sứ thần: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi”. 19 Sứ thần đáp: “Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. 20 Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi”. 21 Dân chúng đợi ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. 22 Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.

23 Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. 24 Ít lâu sau, bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. 25 Bà tự nhủ: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời”.

[3] Lc 1,26-38: 26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

30 Sứ thần liền nói: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. 31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. 32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.

34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” 35 Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. 37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.

38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

[4] Lc 1,39-56: 39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. 40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. 41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, 42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? 44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. 45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.

46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, 47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. 48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. 49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! 50 Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. 51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. 52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. 53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. 54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, 55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”. 56 Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

[5] Lc 1,57-66: 57 Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. 58 Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà. 59 Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. 60 Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gio-an”. 61 Họ bảo bà: “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả”. 62 Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. 63 Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gio-an”. Ai nấy đều bỡ ngỡ. 64 Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. 65 Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. 66 Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.

[6]Tl 5,24: Phúc thay bà Gia-ên, phu nhân ông Khe-ve, người Kê-ni, hơn các phụ nữ, hơn các phụ nữ trong lều trại, bà thật là có phúc; Gdt 13,18: Ông Út-di-gia nói với bà: “Này trang nữ kiệt, bà được Thiên Chúa Tối Cao ban phúc hơn tất cả các phụ nữ trên cõi đất này. Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất; Người đã hướng dẫn bà chặt đầu tướng giặc!

[7] 1Sb 16,42: Cùng với họ có ông Hê-man và ông Giơ-đu-thun thổi kèn, khua não bạt cùng các nhạc khí để hát thánh ca. Các con ông Giơ-đu-thun lo việc giữ cửa.

[8] 1Sb 15,28: Toàn thể Ít-ra-en đưa Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA lên, vừa đi vừa reo hò, giữa tiếng tù và, kèn đồng và não bạt, với tiếng cầm tiếng sắt.; 2Sb 5,13: Họ thổi kèn và ca hát, cùng nhau cất tiếng tung hô và ngợi khen ĐỨC CHÚA. Họ cất tiếng hát cùng với tiếng kèn, tiếng não bạt và các nhạc cụ khác, để tung hô ĐỨC CHÚA, “vì Chúa nhân từ, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Vậy khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Đền Thờ ĐỨC CHÚA.

[9] Lc 1,26.36: 26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.

[10] Đn 9,21-24: 21 Tôi còn đang dâng lời cầu nguyện, thì Gáp-ri-en, nhân vật tôi đã thấy trong thị kiến ban đầu, bay sà xuống sát bên tôi vào lúc dâng hiến lễ ban chiều. 22 Ngài đến ngỏ lời với tôi và nói: “Này Đa-ni-en, nay ta đi ra để giúp ngươi được am tường. 23 Khi ngươi vừa bắt đầu khẩn nguyện, thì lời đã ban ra và ta đến đây để loan báo, vì ngươi là người được quý mến. Hãy thấu triệt lời ấy, hãy am hiểu thị kiến: 24 Bảy mươi tuần đã được ấn định cho dân và thành thánh của ngươi, để chấm dứt gian tà, xoá sạch tội ác, đền xong lỗi lầm, để đem lại sự công chính vĩnh cửu, để thị kiến và lời ngôn sứ được ứng nghiệm, và để xức dầu Nơi Cực Thánh.

[11] x. Cụ già Simêôn gọi Đức Giêsu là “Vinh Quang Của Israel” (Lc 2,29-32): 29 “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. 30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ 31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: 32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài”.

[12] Ml 3,1: Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, – ĐỨC CHÚA các đạo binh phán.

[13] St 12,1-5: ĐỨC CHÚA phán với ông Áp-ram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi ; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc”. Ông Áp-ram ra đi, như ĐỨC CHÚA đã phán với ông. Ông Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi khi ông rời Kha-ran. Ông Áp-ram đem theo vợ là bà Xa-rai, cháu là ông Lót, và mọi tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại Kha-ran. Họ ra đi về phía đất Ca-na-an và đã tới đất đó.

[14]2Sm 6,10-11: 10 Vua Đa-vít không muốn đưa Hòm Bia ĐỨC CHÚA về với mình trong Thành vua Đa-vít, nên cho chuyển hướng sang nhà ông Ô-vết Ê-đôm, người thành Gát. 11 Hòm Bia ĐỨC CHÚA ở nhà ông Ô-vết Ê-đôm người thành Gát, ba tháng, và ĐỨC CHÚA giáng phúc cho ông Ô-vết Ê-đôm cùng cả nhà ông.

[15]Chân Phước Têrêsa Calcutta.

=======

CÁC BÀI CHÚ GIẢI KHÁC CÙNG TÁC GIẢ

Lc 1,1-4; 4,14-21: Đức Giêsu Tại Nazareth

Lc 1,26-38: Ơn Gọi Của Đức Trinh Nữ Maria 


Chia sẻ