Những nét đặc trưng của Triết học Phan Sinh (I)
Fr. Joseph Tân Nguyễn, OFM. Triết Học Phan Sinh, HV Phanxicô 2021
I. TRUYỀN THỐNG TRI THỨC PHAN SINH
II. CÁC HỌC GIẢ PHAN SINH TIÊN KHỞI TẠI PARIS VÀ OXFORD
III. CÁC HỌC GIẢ PHAN SINH THẾ KỶ XII VÀ XIII BÊN NGOÀI CÁC ĐẠI HỌC PARIS VÀ OXFORD
IV. NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA TRIẾT HỌC PHAN SINH
=====================
Những nét đặc trưng của Triết học Phan Sinh (I)
Kể từ cuối thế kỷ XIII, như đã nêu trên, hình thành một trường phái thần học mệnh danh “trường phái Phan Sinh.” Tác phẩm nổi bật đầu tiên của Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh là bộ Tổng Luận của Alexander Hales. Người ta gặp lại trong bộ Tổng Luận đầu tiên này nhiều yếu tố nòng cốt trong viễn tượng linh dạo của Thánh Phanxicô thành Assisi.
Bản tính của Thiên Chúa là tình yêu, và vì thế ý muốn và sự tự do của Thiên Chúa giữ vị trí trung tâm chứ không phải là sự hiểu biết của Thiên Chúa. Tình yêu là căn bản của thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi, về tạo dựng, về Nhập Thể và sự sống phục sinh.
Sự khiêm hạ thể hiện trong Nhập Thể và tình yêu thể hiện trong Khổ Nạn là những chủ đề đang hình thành dần diện mạo của nền thần học Phan Sinh về Đức Giêsu.
Công cuộc tạo dựng nên thiên nhiên hàm chứa Lời Thiên Chúa và Kinh Thánh cũng hàm chứa Lời Thiên Chúa nhưng thiên nhiên và Kinh Thánh không phải là hai Lời của Thiên Chúa. Chỉ có một Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng phán truyền và kêu gọi trong thiên nhiên và trong Kinh Thánh.
Linh đạo và thần học đi đôi với nhau, vì thần học sẽ trống rỗng nếu không có linh đạo, và linh đạo sẽ hời hợt nếu không có thần học.
Một số chủ đề quan trọng khác trong Truyền thống Thần Học Phan Sinh cũng xuất hiện trong bộ Tổng Luận đầu tiên này, nhưng hiện thời hãy xem làm thế nào mà bốn chủ đề, phát xuất từ viễn tượng linh đạo của Thánh Phanxicô Assisi, đã trở nên thành tố của một truyền thống thần học đặc thù, cách riêng dưới ảnh hưởng của Thánh Bonaventura và của Scotus. Các kiến giải đặc thù của Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh về đức tin Công Giáo gặp được một sự đồng cảm trong kinh nghiệm của người dân; đồng thời các cuộc tranh luận giúp xác định những yếu tố đặc trưng của truyền thống ấy; và việc thể chế hóa thành một “trường phái tư tưởng” bảo đảm cho sự ổn định. Khi theo dõi sự hình thành của truyền thống Phan Sinh, chúng ta sẽ xem những nét đặc thù theo hai chủ đề chính:
I. THIÊN CHÚA BA NGÔI: Thiên Chúa Ba Ngôi là một Thiên Chúa mang tính tương quan, một Đấng vừa là Primitas vừa là Fecunditas.
Trong phần này, chúng ta sẽ xem một số đề tài thần học tập trung vào hữu thể bất thụ tạo, tức là Thiên Chúa Nhất Thể Tam Vị.
A. Thiên Chúa Ba Ngôi trong Viễn Tượng và Linh đạo của Thánh Phanxicô
B. Quá trình triển khai thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi trong Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh
1. Thánh Bonaventura và Thiên Chúa Ba Ngôi
2. Scotus và Thiên Chúa Ba Ngôi
3. Tạo Dựng: thuyết “phát xuất”
4. Nhập Thể: Địa Vị của Đức Giêsu trong Tạo Dựng
5. Sự Tự Do Tuyệt Đối của Thiên Chúa
6. Sự khiêm hạ của Nhập Thể
II. THIÊN NHIÊN: một quyển Sách Thánh
Trong phần này, chúng ta sẽ xem một số chủ đề thần học tập trung vào hữu thể thụ tạo.
A. Sách “Thiên Nhiên” trong Viễn Tượng và Linh Đạo của Thánh Phanxicô
B. Quá trình triển khai thần học Tạo Dựng trong Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh
1. Thiên Nhiên xét như là Ân Sủng của Tình Yêu và Tự Do của Thiên Chúa
2. Haecceitas: Học thuyết về tính cá biệt
3. Tính Bất Tất và Ân Sủng
Trong mỗi chủ đề có hai phần. Trước hết, chúng ta sẽ phân tích Nhãn Quan và linh đạo của Thánh Phanxicô. Phần này sẽ trình bày vắn tắt những điều liên quan thấy được nơi Thánh Phanxicô. Tiếp đến, chúng ta sẽ xét quá trình phát triển của mỗi chủ đề bên trong Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh. Phần này sẽ trình bày vắn tắt về những phương cách chính các học giả Phan Sinh đã dùng để dung nhập chủ đề vào nền thần học của họ. Qua đó, hai phần sẽ góp phần nhận diện và xác định các yếu tố trung tâm tạo nên Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh.
I. THIÊN CHÚA BA NGÔI: Một Thiên Chúa mang tính tương quan, một Đấng vừa là Primitas vừa là Fecunditas
Cốt lõi và nền tảng của Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh trong lãnh vực thần học là tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa Nhất Thể Tam Vị là khởi đầu (primitas) và là nguồn phát sinh (fecunditas) của tất cả mọi hiện hữu, bao gồm cả hiện hữu nội tại của Thiên Chúa. Bên trong sự hiện hữu nội tại thần linh này, có một khởi đầu và một nguồn phát sinh mà chúng ta gọi là “Chúa Cha.” Chúa Cha không chỉ là Ngôi “thứ nhất” trong Thiên Chúa Ba Ngôi; Ngài còn là Ngôi Vị từ đó phát sinh các Ngôi Vị khác. Từ sự phong phú nguyên thủy của Chúa Cha, phát xuất Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa Ba Ngôi chỉ có thể hiểu được như là một Thiên Chúa mang tính tương quan. Chỉ có một Thiên Chúa, nhưng Ngài là một Thiên Chúa mang tính tương quan tự bản chất. Theo nhãn quan Phan Sinh, trong nơi sâu thẳm nhất của Thiên Chúa không có một thần tính cô lập, tách rời, siêu việt, hoàn toàn khác biệt. Trái lại, nơi đó có một nguyên thuỷ phong phú và một sự phong phú nguyên tuyền.
A. Thiên Chúa Ba Ngôi trong Viễn Tượng và Linh Đạo của Thánh Phanxicô.
Trong các trước tác của mình, Thánh Phanxicô rất hay sử dụng từ “Thiên Chúa” và điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên, như Norbert Nguyễn Văn Khanh cho biết[1], Thánh Phanxicô không bao giờ nói về Thiên Chúa một cách chung chung. Lúc nào ngài cũng nói đến một Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính Thiên Chúa Ba Ngôi đã tạo dựng nên toàn thể vũ trụ. Chính Thiên Chúa Ba Ngôi là trung tâm đời sống thiêng liêng của Thánh Phanxicô. Khi nào ngài gọi Thiên Chúa là “Cha,” ngài cũng nhắc đến Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi là một vị Thiên Chúa mang tính tương quan; bản thể của Người chỉ có thể hiểu được trong mối tương quan giữa Ba Ngôi. Sau đây là một câu trích từ các trước tác của Thánh Phanxicô, tiêu biểu cho rất nhiều câu khác:
“Lạy Thiên Chúa toàn năng, chí thánh, cao cả, là Chúa Cha thánh thiện và công minh, là Vua cả trời đất, chúng con xin cảm tạ Cha vì chính Cha, và vì Cha đã dựng nên muôn vật hữu hình và vô hình bởi thánh ý Cha, nhờ Thánh tử Duy Nhất của Cha cùng với Thánh Thần.” (Lksd 23, 1)[2]
Có một mối tương quan thiêng liêng thâm sâu giữa Thiên Chúa và Phanxicô. Phanxicô là một con người “thánh.” Là thánh có nghĩa là sống trong tương quan với Thiên Chúa. Có thể được thấy được chiều sâu của moi tương quan giữa Thiên Chúa và Phanxicô trong cảm nghiệm của Phanxicô về Thiên Chúa trên núi La Verna. Nói đến Ba Ngôi tức là nói đến Thiên Chúa theo nghĩa tương quan, và Thánh Phanxicô ý thức rất rõ về điều này. Trong các trước tác của Thánh Phanxicô, không biết bao nhiều lần nhắc đến Thiên Chúa trong tương quan Ba Ngôi. Ví dụ như Thánh Phanxicô yêu thích suy gẫm về sự cao cả của Thiên Chúa được thấy qua những kỳ quan trong vũ trụ thụ tạo. “Các kỳ quan này lại được Ba Ngôi Thiên Chúa cùng thực hiện… Phanxicô không bao giờ nhìn Đức Kitô tách biệt khỏi Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.” Mầu nhiệm Ba Ngôi là nền tảng trung tâm của nhãn quan và linh đạo Phan Sinh.[3]
B. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi theo cách triển khai của Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh
1. Thánh Bonaventura và Thiên Chúa Ba Ngôi
Sau một vài nhận định về bản chất và nội dung của môn thần học, Thánh Bonaventura khởi đầu tác phẩm Bình Giải Các Luận Đề của ngài bằng một đoạn rất dài bàn về Thiên Chúa. Không có gì đặc biệt trong lối khởi đầu như vậy. Tất cả các nhà thần học gia Trung Cổ nào có biên soạn một tập bình giải về Các Luận Đề cũng đều khởi đầu bằng việc bàn về ý nghĩa và phạm vi của thần học. Sau đó, bàn đến vấn đề Thiên Chúa. Đơn giản là họ dựa theo bản văn của Peter Lombard. Tuy nhiên, chính Lombard đã khởi sự trực tiếp với Thiên Chúa Ba Ngôi, chứ không phải là Thiên Chúa Duy Nhất. Thánh Bonaventura tiếp nối cách tiếp cận của Lombard.
Trong tập Bình Giải của Thánh Bonaventura chỉ có một câu hỏi mở đầu bàn về Thiên Chúa Duy nhất. Đó là Quaestio II,[4] được ngài trình bày trong hai trang. Sau đoạn vắn tắt này bàn về Thiên Chúa như là Đấng Duy Nhất, Thánh Bonaventura chuyển hướng ngay qua Thiên Chúa Ba Ngôi. Đối với Thánh Bonaventura, nói về Thiên Chúa Duy Nhất dài đến mấy chăng nữa thì vẫn chưa nói về thực tại của Thiên Chúa, tức là Ba Ngôi. Zachary Hayes nhấn mạnh điều này. Ông cho rằng Thánh Bonaventura chưa bao giờ khai triển một khảo luận chuyên biệt về Thiên Chúa Duy Nhất. “Toàn bộ học thuyết của Thánh Bonaventura về Thiên Chúa đều tập trung bàn một cách có hệ thống về tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi.”[5] Các sách thần học viết về Thiên Chúa Duy Nhất thường nhấn mạnh quá đáng về sự khác biệt hoàn toàn, siêu việt hoàn toàn và độc lập hoàn toàn của Thiên Chúa đối với bất cứ gì điều gì khác. Thiên Chúa duy nhất trở nên “cô độc”.
Tuy nhiên mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi lại nhấn mạnh rằng Thiên Chúa tự bản chất mang tính tương quan. Sự duy nhất của Thiên Chúa là sự duy nhất trong tương quan. Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh luôn coi tương quan trong Thiên Chúa Ba Ngôi như là nền tảng của chính bản tính Thiên Chúa vì Ngài là tình yêu và sự tốt lành. Định đề phổ cập thời Trung Cổ: Bonum est sui diffusivum (“sự thiện tự lan tỏa”) nằm ở tâm điểm của lập trường Phan Sinh khi bàn về Thiên Chúa. Thánh Bonaventura giải thích tất cả các phẩm tính của Thiên Chúa – toàn năng, toàn tri, tự do v.v… – bên trong trong một bối cảnh Ba Ngôi. Hayes nhận định rằng thần học của Thánh Bonaventura về Thiên Chúa Ba Ngôi mang tính “siêu hình” đích thực, vì nó “bao gồm một trực kiến thấu suốt vào mầu nhiệm của Hữu thể; trực kiến này không phủ nhận học thuyết siêu hình về hữu thể của các triết gia cổ đại, nhưng liên tục mở rộng để đón nhận sửa đổi.”[6]
Thánh Tôma Aquinô đi theo một hướng khác. Trong bộ Tổng Luận Thần Học của ngài, trong vấn nạn đầu tiên, Quaestio I, ngài bàn về thần học như là một bộ môn khoa học. Trong Quaestio II, ngài bắt đầu bàn về vấn đề thần học: Thiên Chúa – Thiên Chúa có thực hữu hay không? (De Deo-An Deus Sit?). Trong phân đoạn khá dài này – từ Questio II đến Questio XXVI – tâm điểm chú ý là luận đề Có Một Thiên Chúa Duy Nhất. Chỉ tới Quaestio XXVII, ngài mới bắt đầu bàn về Thiên Chúa Ba Ngôi (XXVI đến XLIII). Trong tác phẩm của Aquinô, các phẩm tính chính của Thiên Chúa được trình bày trong khuôn khổ bàn về tính nhất thể hay duy nhất của Thiên Chúa. Một nền thần học khởi đầu bằng việc dành một đoạn dài để trình bày về Thiên Chúa như là Đấng Duy Nhất và dùng tính duy nhất của Thiên Chúa làm khuôn khổ để bàn về các phẩm tính khác của Thiên Chúa, tất nhiên sẽ rất khác biệt với một nền thần học bắt đầu bằng việc dành một đoạn dài để bàn về Thiên Chúa Ba Ngôi và dùng khái niệm Thiên Chúa Ba Ngôi làm khuôn khổ để bàn về các phẩm tính khác của Thiên Chúa. Điểm dị biệt này giữa Thánh Tôma và Thánh Bonaventura là một trong những dị biệt căn bản giữa Truyền Thống Tri Thức Đa Minh và Truyền thống Tri Thức Phan-sinh. Đối với Thánh Bonaventura, phần khảo luận về Ba Ngôi không chỉ đơn thuần là một phần dẫn nhập, không có ảnh hưởng quan trọng nào đối với phần khảo cứu thần học tiếp sau đó. Hayes nhấn mạnh điểm này: “Tất cả các chủ đề thần học đều được Thánh Bonaventura đặt quy chiếu về mầu nhiệm Ba Ngôi.”[7] Suy tư trong khuôn khổ mầu nhiệm Ba Ngôi là một nguyên lý cấu trúc trong toàn bộ viễn tượng thần học của Thánh Bonaventura.
Nền thần học đậm tính Ba Ngôi của Thánh Bonaventura phản ánh một số chủ đề trong các tác phẩm của Pseudo-Dionysius (cuối thế kỷ V hay đầu thế kỷ VI C.N.) và của Hugh of St. Victor (1090-1141), hai tác giả có ảnh hưởng rất lớn đối với mọi tác giả kinh viện thời Trung Cổ. Ngoài ra Thánh Bonaventura cũng vay mượn nhiều từ tư tưởng thần học Ba Ngôi của các giáo sư Phan Sinh đã dạy ngài tại Paris, đặc biệt là Alexander Hales và Odo Rigaldus, hai học giả nòng cốt đóng góp vào sự hình thành Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh. Một lần nữa, chúng ta thấy rõ là truyền thống này có cội rễ nằm sâu trong lịch sử tư tưởng Kitô giáo; sau đó được tinh chỉnh và sắp xếp thành một cấu trúc mang tên là “trường phái Phan Sinh.”
2. John Don Scotus và Thiên Chúa Ba Ngôi
Trong tập Bình Giải Các Luận Đề của John Don Scotus, thường được gọi là Reportatio, người ta cũng gặp một mẫu tư duy tương tự. Tiết thứ nhất của phần Distinctio Secunda có tựa đề là De Esse Dei et eius Unitate (Về Hữu Thể của Thiên Chúa và về Tính Duy Nhất của Ngài). Scotus cũng bắt đầu với ba van nạn dài, nhưng nội dung rất khác so với nội dung trong bộ Tổng Luận của Thánh Tôma. Trong suốt sự nghiệp của mình, Scotus luôn quan tâm đến khả năng của con người nhận biết Thiên Chúa. Công trình nghiên cứu sâu sắc nhất của Scotus về vấn đề này là tập Khảo luận về Thiên Chúa như là Nguyên nhân Đệ nhất. Trong tập Khảo luận ấy, chúng ta gặp lại nhiều nội dung được bàn trong tiết đầu của tập Bình Giải. Vấn đề tiên khởi của Scotus không phải là vấn đề về Thiên Chúa Duy Nhất, nhưng là vấn đề làm sao con người có thể biết được một điều gì về Thiên Chúa. Vấn đề thứ hai tập trung vào vô hạn tính. Trong tập Khảo luận, Scotus cũng theo một lối suy tư, vì lý luận trong đó được triển khai theo các giai đoạn căn bản như sau:
* Đối với Scotus, tính đơn nghĩa (univocity) của hữu thể là bước đầu bắt buộc đối với bất kỳ học thuyết nào bàn về cách thức con người biết có thể hiểu biết một điều gì đó về Thiên Chúa. Ngài không gọi hữu thể đơn nghĩa là “Thiên Chúa,” nhưng gọi đó là nguyên lý đệ nhất.
* Scotus có một cách trình bày rất độc đáo về tương quan giữa ‘hữu thể’ với ba đặc tính của mình là ‘duy nhất, chân thật và tốt lành’. Hữu thể đơn nghĩa có tính siêu việt đặc thù và độc hữu – xét như là hữu thể và xét như là duy nhất, chân thật và tốt lành. Đối nghịch với ‘duy nhất’ không phải là hai, ba hoặc nhiều, mà là vô thể tuyệt đối. Đối nghịch với ‘chân thật’ không phải là sai lầm, nhưng là vô thể tuyệt đối. Đối nghịch với ‘tốt lành’ không phải là xấu, nhưng là vô thể tuyệt đối. Dĩ nhiên, đối nghịch của hữu thể cũng là vô thể tuyệt đối.
* Chỉ đến bước thứ ba, Scotus mới bàn đến ‘các đối cực tiên nghiệm’, và đối cực tiên nghiệm chủ yếu, đó là ‘hữu hạn – vô hạn’. Ở cấp độ thứ ba này, đối nghịch với ‘duy nhất’ là một cái khác hay nhiều cái khác; đối nghịch của ‘chân thật’ là sai lầm ; và đối nghịch của ‘tốt lành’ là xấu.
Câu hỏi thứ nhất: Con người có thể biết gì về Thiên Chúa hay không?
Trả lời: Con người chỉ có thể biết về Thiên Chúa thông qua ‘hữu thể đơn nghĩa’ và thông qua ‘các khái niệm tiên nghiệm bất đối cực.’
Câu hỏi thứ hai: Có thể có một hữu thể vô hạn chăng?
Trả lời: Có thể có, và trí óc nhân loại của chúng ta không những có thể đặt ra câu hỏi này, nhưng còn có hình thành một sự hiểu biết lờ mờ nào đó về hữu thể vô hạn này.
Câu hỏi thứ ba: Chỉ có thể có một hữu thể vô hạn mà thôi hay sao?
Trả lời: Đúng vậy, vì về phương diện luận lý, không thể có hai hay nhiều hữu thể vô hạn.
Trong tập Bình Giải của ông, câu hỏi đầu tiên mà Scotus đặt ra là về khả năng con người nhận biết Thiên Chúa. Câu hỏi thứ hai là về hữu thể vô hạn. Câu hỏi thứ ba là về khả năng có hai hữu thể vô hạn cùng một lúc. Chỉ sau khi trình bày các vấn đề sơ khởi thuộc tri thức luận này, Scotus mới thật sự đối diện với vấn nạn về Thiên Chúa, và vấn nạn tập trung vào Thiên Chúa Ba Ngôi và mang tính tương quan. Về phương diện thần học, vị Thiên Chúa duy nhất mà Scotus muốn trình bày là một Thiên Chúa có Ba Ngôi và mang tính tương quan. Từ phần này của tập Bình Giải, Scotus suy tư theo cùng một hướng của Thánh Bonaventura. Từ giai đoạn này về sau, việc tập trung vào một Thiên Chúa mang tính tương quan và có Ba Ngôi tiếp tục là nòng cốt của Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh.
3. Công Cuộc Tạo Dựng và Thiên Chúa Ba Ngôi: thuyết Lưu Xuất (Emanation)
Một nền thần học về công cuộc tạo dựng Trong truyền thống Phan Sinh chỉ có ý nghĩa khi đặt trên nền tảng một Thiên Chúa Ba Ngôi có tương quan với nhau. Trong thần học Công Giáo, công cuộc tạo dựng phần nhiều được trình bày như là một hoạt động ad extra (hướng ngoại - phía ngoài bản tính của Thiên Chúa), trong khi các tương quan giữa Ba Ngôi tạo nên bản tính ad intra (hướng nội) của Thiên Chúa. Nói cách khác, công cuộc tạo dựng thường được trình bày như là hoạt động hướng ra bên ngoài của Thiên Chúa Duy Nhất. Chỉ có đời sống nội tại của Thiên Chúa (ad intra) mới mang đặc tính Ba Ngôi mà thôi. Những hoạt động của Thiên Chúa hướng ra bên ngoài đời sống nội tại được xem như là hoạt động của Thiên Chúa Duy Nhất hay là hoạt động hợp nhất của Thiên Chúa. Đây không phải là viễn tượng Phan Sinh. Chỉ có một Thiên Chúa Ba Ngôi mang tính tương quan mới đem lại một ý nghĩa thần học cho thế giới thụ tạo. Trong thần học của Thánh Bonaventura, có những “lưu xuất ” nội tại, mà chúng ta gọi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tuy vậy, theo viễn tượng của truyền thống Tân-Platô, Thánh Bonaventura đã ứng dụng mạnh mẽ tiền đề: “Một sự vật càng nguyên khởi bao nhiêu thì càng phong phú bấy nhiêu, và càng là nguồn nguyên lý cho nhiều sự cá biệt.” Từ tiền đề này, ngài giải thích “Tính nguyên khởi và tính phong phú là hai phẩm tính diễn tả Thiên Chúa như là nguồn mạch của mọi hữu thể.”[8] Tính nguyên thủy (primitas) càng thâm sâu bao nhiêu thì tính phong phú (fecunditas) càng rộng rãi bấy nhiêu.
Trong chính công cuộc tạo dựng, chúng ta cảm nhận được sự hiện diện của một Thiên Chúa có Ba Ngôi, chứ không chỉ đơn thuần là sự hiện diện của Một Thiên Chúa Duy Nhất. Hơn thế nữa, chính thụ tạo phụ thuộc tận căn bản vào tính nguyên khởi và tính phong phú của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thuật ngữ “primitas” (tính nguyên thuỷ, trước hết) tự nó cũng hàm ý là sau đó sẽ có “cái thứ hai, thứ ba, thứ tư,” v.v. Nó bao hàm một mối tương quan. Nếu không có cái thứ hai thì không có cái thứ nhất. Các lưu xuất bên trong Thiên Chúa (“các nhiệm xuất”) trình bày Chúa Cha như là mức độ uyên nguyên nhất của sự viên mãn, quyền năng và phong phú của Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Con như là Ngôi Hai của Thiên Chúa Ba Ngôi và Chúa Thánh Thần như là Ngôi Ba của Thiên Chúa Ba Ngôi. Các nhà thần học gia nói chung vẫn luôn sử dụng các khái niệm “thứ nhất, thứ hai và thứ ba" để nói về Ba Ngôi. Các thần học gia Phan Sinh chỉ làm công việc tiếp tục bàn về công cuộc tạo dựng trong bối cảnh của tính phong phú uyên nguyên này. Thiên Chúa thực hiện công cuộc tạo dựng là một Thiên Chúa có Ba Ngôi, và bởi vì công cuộc tạo dựng là một tiến trình luôn tiếp diễn, nên Thiên Chúa Ba Ngôi không chỉ tạo dựng một lần tại một “thời điểm tạo dựng” nào đó. Đúng hơn, Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn tiếp tục liên hệ với công trình sáng tạo.[9] Công trình tạo dựng – thiên nhiên – là một cuốn sách trong đó người ta có thể đọc thấy sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi.
4. Nhập Thể: Vị trí của Đức Giêsu trong công trình Tạo Dựng
Trong truyền thống thần học Phan Sinh, Đức Giêsu cũng được trình bày theo các phẩm tính nguyên khởi (primitas) và phong phú (fecunditas). Đối với Thánh Bonaventura và Scotus, hai học giả Phan Sinh tiêu biểu, Đức Giêsu có vị thế tiên khởi và phong phú trong công cuộc tạo dựng. Nhập Thể không phải là ý định về sau mới có, phát sinh từ tội lỗi con người. Thực sự, Nhập Thể có vị thế tiên khởi trong công cuộc tạo dựng. Một học giả Phan Sinh không thể giải thích công cuộc tạo dựng về phương diện thần học ma không đề cập đến tính nguyên khởi và tính phong phú của Đức Giêsu. Khi Thần Khí của Thiên Chúa lần đầu tiên thổi trên vực thẳm hỗn mang và làm cho ánh sáng bừng lên, Đức Giêsu-ánh sáng đã có mặt trong sự tiên khởi và phong phú của mình. Ánh sáng của Tạo Dựng và “ánh sáng của trần gian” chỉ có thể nhìn thấy trong sự thống nhất. Đây là lý do tại sao chính công cuộc tạo dựng là khởi đầu của nhập thể.
Khi đọc trong Tin Mừng theo thánh Gioan đến câu: “Ngôi lời đã trở thành xác phàm” (1,14), chúng ta chú ý ngay đến mối tương quan giữa một bên là ‘Ngôi Lời’ hoặc Thiên Chúa, và bên kia là bản tính con người hoặc ‘xác phàm’. Nhập Thể là một sự liên kết thụ tạo với Thiên Chúa, một sự hợp nhất, qua đó Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, viên mãn trong cả thần tính lẫn nhân tính của Ngài, cùng một bản thể với Chúa Cha và cùng một bản thể với tất cả nhân loại (Công Đồng Canxêđônia). Công cuộc tạo dựng cũng là sự liên kết thụ tạo với Thiên Chúa. Trong Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh, hai mối “liên kết” này gắn liền với nhau tự bản chất. Có thể gọi công cuộc tạo dựng là khởi đầu của nhập thể, bởi vì hai sự kiện này không thể tách rời.
Tuy nhiên, Nhập Thể không chỉ bắt đầu với tạo dựng. Cả Tạo Dựng lẫn Nhập Thể đều chưa hoàn tất, chưa kết thúc, nếu không có Quang Lâm (parousia). Quang Lâm có thể bao gồm nhiều nội dung, nhưng đó là một yếu tố nội tại làm nên sự viên mãn của Tạo Dựng và Nhập Thể. Sự phục sinh của Đức Giêsu là một phần trong tiến trình Tạo Dựng-Nhập Thể hay Nhập Thể- Tạo Dựng. Sự sống trong tình trạng phục sinh của Đức Giêsu, và kết hợp vào đó là sống trong tình trạng phục sinh của mỗi người chúng ta, không chỉ đơn thuần là tiếp tục sống sau khi chết. Đây là tiếp tục sự sống trong tương quan với Thiên Chúa một cách mãnh liệt hơn. Làm người trên trần gian này là một cách làm người. Làm người trong cuộc sống phục sinh cũng là một cách làm người, nhưng rất khác biệt. Nhập Thể có nghĩa là Thiên Chúa gia nhập cách thế làm người của chúng ta, không chỉ bằng cách liên kết với cách sống làm người của chúng ta trên trần gian, nhưng còn liên kết với cách làm người của chúng ta trong cuộc sống phục sinh.
Ba giai đoạn này của hữu thể hữu hạn – tạo dựng-nhập thể-cuộc sống phục sinh – hợp thành một thực tại thống nhất theo lối nhìn thần học của Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh. Công cuộc Tạo Dựng chỉ có ý nghĩa bên trong mối liên kết cơ bản với các phẩm tính nguyên khởi và phong phú của một Thiên Chúa mang bản chất tương quan, cũng như bên trong mối liên kết nội tại với công cuộc Nhập Thể và sự sống với Thiên Chúa sau phục sinh. Nhập Thể chỉ có ý nghĩa bên trong mối liên kết cơ bản với các phẩm tính nguyên khởi và phong phú của một Thiên Chúa mang bản chất tương quan, cũng như bên trong mối liên kết nội tại với tạo dựng và cuộc sống phục sinh. Cuộc sống phục sinh chỉ có ý nghĩa bên trong mối liên kết cơ bản với các phẩm tính nguyên khởi và phong phú của một Thiên Chúa mang bản chất tương quan, cũng như bên trong mối liên kết nội tại với Tạo Dựng và Nhập Thể. Sơ đồ sau đây sẽ trình bày một hình ảnh về mối liên hệ đa chiều này.
5. Sự tự do tuyệt đối của Thiên Chúa
Các thần học gia Phan Sinh chủ trương một lối suy luận thần học mang tính hiện thực. Là Kitô hữu, chúng ta tin rằng thế giới chúng ta đang sống là một thế giới được tạo dựng. Chúng ta cũng tin rằng Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa và vừa là con người. Chúng ta cũng tin rằng bằng cách này hay cách khác, vũ trụ, bao gồm cả chính chúng ta, sẽ có một thời cùng tận. Tất cả những điều ấy là những “dữ kiện” thần học trong niềm tin chúng ta. Dựa trên các “dữ kiện” được mạc khải này, Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh nhấn mạnh đến việc suy luận trên những điều có thực, chứ không phải trên những điều có thể. Có thể có tạo dựng mà không có Nhập Thể hay không? Dĩ nhiên là có thể. Thiên Chúa hoàn toàn tự do để định liệu có Nhập Thể hay không. Trong thực tế, Thiên Chúa đã quyết định có nhập thể. Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới không có Nhập Thể và một lúc tận cùng hay không? Một lần nữa, câu trả lời là có thể. Thế giới Thiên Chúa tạo dựng và thế giới trong đó diễn ra công cuộc Nhập Thể, xét một cách trừu tượng, không đòi hỏi phải có một thời cùng tận, phải có một sự sống sau khi chết, hay một cuộc giáng lâm. Trong thực tế Thiên Chúa đã không làm điều này. Trong thế giới mà Thiên Chúa đã tạo dựng mà tâm điểm là việc Ngôi Lời Nhập Thể, thực sự có sự sống với Thiên Chúa sau khi chết.
Truyền Thống Tri Thức Phan Sinh không khởi đầu với những gì Thiên Chúa có thể thực hiện, nhưng với những gì Thiên Chúa đã thực hiện. Trong toàn thể những gì Thiên Chúa đã thực hiện, truyền thống này nhấn mạnh đến tính chất thống nhất nội tại của nó. Theo tư tưởng Phan Sinh, điem mấu chốt của sự thống nhất nội tại này là việc nhập thể. Xét về mặt thần học, Nhập Thể không phải là một ý định về sau mới có của Thiên Chúa mà nguyên cớ là tội lỗi con người. Nhập Thể đã có ý nghĩa riêng ngay từ lúc khởi đầu tạo dựng và liên hệ chặt chẽ với cuộc sống ngày sau. Công việc nghiên cứu thần học chú tâm đến những gì Thiên Chúa đã thực hiện. Những gì Thiên Chúa đã có thể làm nhưng không làm, theo tư tưởng Phan Sinh, tùy thuộc vào sự tự do tuyệt đối của Thiên Chúa. Chúng ta không thể nào hiểu rõ, ngoại trừ một điều là Thiên Chúa tự do và tự do một cách tuyệt đối.
6. Sự Khiêm hạ của Nhập Thể
Như chúng ta đã thấy, đức khiêm hạ biểu lộ trong việc Nhập Thể làm choáng ngợp cả tâm hồn Thánh Phanxicô. Bởi Thiên Chúa đã hạ mình như thế nên chúng ta phải kính trọng tất cả mọi loài thụ tạo, đặc biệt là những loài thấp bé nhất. Khi đọc các trứ tác của Thánh Phanxicô và Thánh nữ Clara, chúng ta thấy việc nhấn mạnh đến sự khiêm hạ của Nhập Thể có mối liên hệ sâu sắc với các kiến giải mang tính chất học thuật nhiều hơn về Thiên Chúa Ba Ngôi và về các phẩm tính nguyên khởi và phong phú, xét cả về sự sống bên trong lẫn tác động bên ngoài của Ba Ngôi qua công cuộc Tạo Dựng–Nhập Thể. Tất cả các kiến giải này nằm tại chính trung tâm và cốt lõi của nhãn quan và linh đạo Phan Sinh, bởi vì tạo dựng chính là Thiên Chúa-lập quan hệ-với-thế giới-chúng ta. Công cuộc tạo dựng là sự khởi đầu của nhập thể, và nhập thể có nghĩa là lập quan hệ: Ngôi Lời trở thành xác phàm, Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Khi ngắm nhìn Nhập Thể qua lăng kính của sự khiêm hạ và dưới ánh sáng của thần học Ba Ngôi theo trường phái Phan Sinh, chúng ta lại thấy chính công cuộc tạo dựng mang một dáng vẻ mới – vẻ đẹp bao la và linh thiêng mà người ta có thể khám phá được trong cái “nhỏ nhặt”, cái không đáng kể và trong những thứ bị xã hội loại trừ.
[1] Norbert Nguyen Van Khanh, OFM, The Teacher of His Heart (St Bonaventure, NY: The Franciscan Institute, 1994),66.
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
ĐỌC BÀI VIẾT GỐC TẠI ĐÂY