Hãy Nghe Đây, Hỡi Các Quý Bà
Thư của các Tổng Phục Vụ Dòng Nhất
Dịp mừng đại lễ thánh Clara và Bát bách Chu niên bài ca Audite, Poverelle
Gửi các chị em thuộc Dòng Thánh Clara,
Dòng Thánh Clara Nghèo Urbanist,
Dòng Clara Nghèo Capuchin.
Quý chị em thanh bần của thánh Clara thân mến,
Ke de multe parte et provincie sete adunate,
Chúng tôi, các Tổng Phục Vụ Dòng Nhất, nguyện xin
Chúa ban cho chị em bình an của Người!
Trong Năm Thánh 2025 này, chúng ta không chỉ cử hành biến cố Bát bách Chu niên Bài ca anh Mặt Trời, mà cả “các lời với cung điệu dành cho các quý bà nghèo ở San Đamianô”, được biết đến với tên gọi Audite, Poverelle (Hãy nghe đây, hỡi các Quý Bà) mà thánh Phanxicô Assisi đã soạn ra để an ủi các chị em[1] vào mùa đông 1225. Hai bản văn rất gần nhau về mặt thời gian và vào cùng một thời điểm trong cuộc đời Phanxicô. Có thể nói rằng cả hai theo sát nhau và soi sáng cho nhau.
Với tầm quan trọng của việc kỷ niệm biến cố này trong đại gia đình Phan Sinh, và thậm chí quan trọng hơn cho các chị em, chúng tôi – các Tổng Phục Vụ ba nhánh Phan Sinh, với lòng quý mến, cùng gửi đến chị em một vài gợi hứng từ các lời của cha thánh Phanxicô với xác tín rằng sau 800 năm chúng vẫn giữ nguyên nội lực và có tầm quan trọng lớn lao cho đời sống chiêm niệm Phan Sinh của chị em ngày nay.
“Hãy nghe đây, hỡi các Quý Bà nghèo được Chúa kêu mời”: căn tính của chị em
Với hai từ đầu tiên chứa đựng đầu đề cho toàn thể bài thơ, Phanxicô, như một người cha đầy yêu thương và một người thầy khôn ngoan, mời gọi chị em ở San Đamianô lắng nghe, nghĩa là đón nhận trong thâm sâu cõi lòng những lời mà “ngài ước mong tỏ lộ cho chị em cách ngắn gọn nguyện ước của ngài, bây giờ và mãi mãi”[2]. Và nguyện ước đầu tiên của Phanxicô là xác nhận lại căn tính của Clara và các chị em bà là các “Quý Bà nghèo”, được kêu mời và hiện diện trong Giáo Hội bởi Chúa Cha để “theo sát sự nghèo khó và khiêm hạ của Con Yêu Dấu của Người và Mẹ Trinh Khiết huy hoàng”[3]. “Quý Bà nghèo” là một từ ngữ diễn tả căn tính sâu thẳm nhất của chị em, “tóm gọn một lối sống, một cách thế hiện diện trước Thiên Chúa và trong Giáo Hội”[4], nói cách ngắn gọn là bản chất của một mẫu thức đời sống được sống một cách say mê và được bảo vệ bởi Clara trong suốt cuộc đời. Và đó là căn tính của chị em, căn tính của những nữ tử thanh bần mà “tu viện đích thực là nhân tính của Chúa Giêsu nghèo khó và khiêm hạ”[5], căn tính của những người phụ nữ hiến mình trọn vẹn cho Thiên Chúa trong chiêm niệm, được đặc trưng trên hết nơi đời sống khiêm nhường và nghèo khó trong tình huynh đệ, điều mà ngày nay cần được bảo tồn đầy đủ hơn nữa và phải được phản chiếu trong đời sống của mỗi chị em, mỗi cộng đoàn và các dòng. Chính điều này mà chị em đã được kêu gọi bởi Thiên Chúa.
“được quy tụ từ nhiều nơi”: sự hiệp nhất thánh
Từ buổi sơ khai, cộng đoàn ở San Đamianô đã đón chào các chị em, quý phái hay bình dị, không chỉ ở Assisi nhưng từ nhiều nơi chốn khác[6], và chị em từ những nền văn hóa rất khác nhau đã nhắc đến điều này trong các văn thư, như lá thư của Clara gửi cho Agnes thành Prague và Ermentrude thành Bruges. Chúng tôi thấy ngày nay có những bằng chứng rõ hơn về một sự chuyển mình của Dòng Nhất và của chị em thành những cộng đoàn ngày càng quốc tế và đa văn hóa. Các chị em từ nhiều miền tổ quốc, nhiều quốc gia, nhiều chủng tộc, văn hóa và đến từ nhiều bối cảnh xã hội đa dạng giờ đây sống chung trong một cộng đoàn hoặc liên hiệp. Sự đa dạng này được xem trước tiên và trên hết là một món quà quý giá bởi nó làm giàu cho việc thể hiện đặc sủng chung được cắm rễ trong Tin Mừng, quá nhiều và lớn mạnh đến nỗi không thể được biểu lộ chỉ từ một nền văn hóa duy nhất. Tuy nhiên, thực tại này cũng chứa đựng một thách đố lớn mời gọi chúng ta chấp nhận lẫn nhau cách sâu sắc, tích hợp sự khác biệt của chúng ta và vượt lên những thành kiến đang thống trị chúng ta mà chúng ta không hay biết. Điều đó cũng đòi buộc chúng ta phải tập phân định cẩn thận qua việc lượng giá thường xuyên cách thế nào mà các yếu tố văn hóa cụ thể có thể hài hòa với sứ điệp Tin Mừng. Do đó, chúng ta phải không ngừng tìm kiếm và bảo tồn ở mọi cấp độ sự “hiệp nhất thánh”, điều không nên bị lẫn lộn với việc giảm trừ thành sự đơn điệu hoặc đeo đuổi sự đa dạng bằng mọi giá, nhưng điều này cho thấy cần xem xét mọi sự từ mối dây liên kết sâu thẳm nhất kết nối chị em lại với nhau: gợi hứng thánh thiêng tác động khiến chị em đón nhận cùng một đời sống[7].
“Hãy luôn sống trong chân lý và chết đi trong vâng lời”: đi theo Đức Kitô
Trong Kitô giáo, chân lý không đơn thuần là một khái niệm hoặc lý thuyết, nhưng là một con người, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã phán rằng chính Người là “chân lý”[8], và với Người chúng ta được kêu gọi để sống một mối quan hệ, một kinh nghiệm của sự gặp gỡ và hiểu biết ngày càng sâu sắc. Sống “trong chân lý” trước tiên có nghĩa là liên tục đào sâu mối tương quan cá vị với Thiên Chúa – độc nhất và không thể thay thế được, từ đó chúng ta khám phá ra căn tính đích thực của mình, sự hiện hữu sâu thẳm nhất. Nó cũng có nghĩa là gắn liền với chân lý của sự nhập thể của Con Thiên Chúa, trong nghèo khó và khiêm hạ, luôn dõi theo “cuộc sống và sự nghèo khó của Đức Chúa tối cao Giêsu Kitô và Mẹ chí thánh của Người”[9]. Thay vì gắn chặt với các chân lý tín điều, sống trong chân lý đưa chúng ta trở về với trọng tâm của linh đạo Phanxicô và Clara: bước theo sự nghèo khó và khiêm hạ của Đức Kitô, tuân giữ Tin Mừng của Người trong những bối cảnh khác nhau của cộng đoàn, văn hóa và xã hội mà nơi đó chúng ta được cắm rễ vào. Nói cách khác, trong từng biến cố cụ thể và chân thực của đời sống. Rõ ràng là cuộc sống trong chân lý mà Phanxicô và Clara nói đến giới thiệu một sự chấp nhận mạnh mẽ và gắn bó hoàn toàn với mạc khải của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, điều này cơ bản đòi hỏi phải “vâng phục” chính Người và sứ điệp của Người. Nó là sự vâng phục đi theo chúng ta không chỉ khi sống nhưng còn cả khi chết, trong đó chúng ta kiên trì trong suốt sự hiện hữu của mình, tuân giữ “mãi mãi sự nghèo khó và khiêm hạ của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và Mẹ chí thánh của Người và thánh Phúc Âm”[10], bởi “phúc cho những ai bước theo và kiên trì đến cuối cùng”[11]. Tại đây chúng ta đụng đến thực tế nhạy cảm của những yêu cầu từ các anh chị em rời bỏ dòng thậm chí sau nhiều năm sống đời thánh hiến, điều này đặt ra nhiều câu hỏi mà chúng ta phải nghiêm túc xem xét lại chất lượng của đời sống huynh đệ và chiều sâu của việc huấn luyện, đặc biệt liên quan đến cảm thức cá nhân về việc thuộc về Đức Kitô và Tin Mừng của Người.
“Đừng nhìn theo cuộc sống bên ngoài, vì đời tinh thần thì tốt đẹp hơn”: sự xác thực của đời sống
Điều đầu tiên chúng ta cần lưu ý là Phanxicô không chỉ đơn giản nói lên sự đối lập giữa “đời sống bền ngoài” và “đời sống nội tâm”, mà xét trên bề mặt chữ viết, điều này có thể được hiểu như là sự đối lập giữa sự hiện diện tại thế mà từ đó Phanxicô đã rời đi bằng cuộc hoán cải của mình[12] và kinh nghiệm sống trong đan viện của Clara tại San Đamianô. Thực ra Phanxicô đang đối lập giữa “đời sống bên ngoài” với “đời sống tinh thần”, gợi ý rằng sự phân biệt thực sự không nằm ở “bên ngoài” hay “bên trong”, nhưng là giữa “sống theo xác thịt” và “sống theo tinh thần”[13], giữa “thần khí xác thịt” và “Thần Khí của Đức Chúa”[14]. Đó là hai cách thế hiện hữu khác nhau căn bản: một được thúc đẩy bởi sự thống trị của cái tôi (xác thịt), cái khác được hứng khởi bởi Thiên Chúa (tinh thần). Hai khía cạnh này cũng đưa đến hai lối sống khác nhau cho người Kitô hữu cũng như đời sống đạo. Phanxicô đã giải thích: “vì thần khí xác thịt ham muốn và quan tâm nhiều đến lời lẽ, nhưng ít đến việc làm; không tìm kiếm lòng đạo đức và sự thánh thiện bên trong của tâm hồn, nhưng lại ước muốn thứ đạo đức và thánh thiện lộ ra bên ngoài cho người ta thấy.”[15] Do đó, lựa chọn mà chúng ta liên tục được mời gọi phải đối diện là chọn giữa một Kitô hữu hời hợt với đời sống đạo bề ngoài, hình thức và một kinh nghiệm Kitô giáo thực chất, đồng nhất được thấm nhập bởi mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô – ao ước trên hết “được Thần Khí Chúa ở lại và tác động cách thánh thiện nơi mình”[16]. Tất cả chúng ta phải tỉnh thức trước nguy cơ của “thần khí của thế gian”, điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô thường cảnh báo, “ngụy trang sau vẻ ngoài đạo đức và thậm chí yêu mến Giáo Hội, nhưng thay vì tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa, lại chỉ tìm kiếm vinh quang nhân loại và thành đạt cá nhân”[17].
“Xin chị em vì tình yêu cao cả thận trọng dùng của bố thí Chúa ban”: phân định liên tục
Một dấu chỉ rõ ràng của hành trình theo Thần Khí là thái độ thận trọng trường kỳ và phân định mà, trong trường hợp của Clara, Phanxicô áp dụng cho thắc mắc về của bố thí, khi sự khổ hạnh ngặt nghèo đưa bà đến việc từ chối thậm chí cả những nhu cầu vật chất căn bản cho cuộc sống. Vì lý do này, “với lòng quý mến thâm sâu” và nỗi lo lắng cho sức khỏe của bà, Phanxicô cùng với Đức Giám mục Assisi đã truyền lệnh cho bà “không được để một ngày trôi qua mà không dùng ít là một mẩu rưỡi bánh mì nuôi thân”[18]. Sự thận trọng này cũng cảnh giác chúng ta chống lại sự thái quá: sự cho phép sẽ dẫn đến việc lãng phí tài nguyên tự nhiên, đưa đến cám dỗ chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa tiêu thụ. Trong một huấn ngôn, Phanxicô đã căn dặn rằng “ở đâu có từ tâm và thận trọng, ở đấy không có quá khích và đanh đá”[19]. Chúng ta có thể nới rộng lời căn dặn về sự thận trọng/phân định không chỉ cho mối tương quan của ta với vật chất, nhưng với tất cả những “của bố thí” khác, là “tất cả những quà tặng chúng ta nhận được từ vị đại ân nhân, mà khởi đầu là món quà quý giá nhất: ơn gọi của chúng ta”[20]. Vì ơn gọi là quà tặng mà chúng ta hằng nhận nơi Người, sự phân định trường kỳ, cả cá nhân lẫn cộng đoàn, trở nên cần thiết để xem coi chúng ta đang canh tác và đáp trả thế nào với quà tặng vô giá như vậy. Nó cũng đòi hỏi sự cẩn trọng trong mối tương quan liên vị, bắt đầu với những người là chị em của ta trong cộng đoàn, chống lại mọi hình thức lạm dụng. Giáo Hội ngày nay yêu cầu chúng ta có nhạy bén đặc biệt trong mối quan hệ với tất cả mọi người, cẩn trọng cả với những liên hệ diễn ra qua những công nghệ truyền thông mới. Thực tế ngày nay chúng ta chìm ngập trong một nền văn hóa kỹ thuật số đòi hỏi nền huấn luyện đúng đắn và sự phân định chính xác về những tác động của nó trên đời sống chiêm niệm.
“Hỡi những ai mang bệnh tật nặng nề và những ai phải chăm sóc mệt mỏi, xin mọi người cam chịu trong bình an, nỗi nhọc nhằn được bán với giá đắt”: kiên nhẫn với nhau
Trong số những thực tại cần đến sự thận trọng, thì bệnh tật đòi hỏi một sự phân định rõ ràng, mà nơi cộng đoàn San Đamianô khởi đầu với chính Clara, người đã liệt giường trong nhiều năm. Ngay giữa cộng đoàn của chúng ta, bệnh tật vẫn luôn hiện diện, đôi khi mang đến nhiều đau đớn cho người anh chị em đang đối diện với nhiều vấn đề sức khỏe trầm trọng. Chúng ta đã chứng kiến sự dũng cảm lớn lao về tinh thần của rất nhiều chị em trong phòng bệnh, mặc cho nỗi đau đớn, vẫn giữ được sự thanh thản và thậm chí niềm vui trong lòng. Đó là những nữ tu đã sống đặc sủng cách tròn đầy bởi các chị đã để cho mình được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh mà họ hằng chiêm ngắm. Các chị được đồng hành bởi nhiều chị em khác và toàn thể cộng đoàn, với nhiều nỗ lực, chia sẻ việc chu cấp cho người bệnh sự chăm sóc cần thiết và trên hết là mối liên kết huynh đệ và tinh thần. Đối với chúng tôi, rõ ràng là Phanxicô đã thấy những điều trên được thực thi trong cộng đoàn San Đamianô trong Audite Poverelle, mở rộng mối phúc được thấy trong Bài ca anh Mặt Trời, trong đó ngài chỉ nhắc đến những người cam chịu bệnh tật và ưu phiền[21]. Trong Audite Poverelle ngài thêm vào những người làm việc cực nhọc cho các chị em bệnh tật. Đúng vậy, thưa các chị em, chị em thật sự hạnh phúc khi, trong qua lăng kính của đức tin, sống trong bệnh tật hoặc chăm sóc bệnh nhân! Tuy vậy, theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói rằng tất cả chúng ta đều là những bệnh nhân, nghĩa là không hề vững mạnh và do đó cần được đổi mới và giúp đỡ từ người khác, bởi rất nhiều lần chúng ta thỏa hiệp với giới hạn của chúng ta, với sự yếu đuối, với tội lỗi của chúng ta. Những điều này nên được xem như những thời khắc của ân sủng, bởi chúng đưa chúng ta trở về với điều kiện thực sự của ta: rằng con người luôn cần đến sức mạnh và lòng nhân từ của Thiên Chúa, và cũng cần sự kiên nhẫn của người khác, cần ai đó giúp chúng ta mang đỡ những gánh nặng đời sống. Khi đó những tình huống này trở thành cơ hội đặc biệt để thực thi Luật của Đức Kitô[22]. Điều này không chỉ diễn ra trong cộng đoàn riêng biệt nhưng còn giữa các cộng đoàn của các Hiệp Hội và các Dòng, nhiều khi cần phải giảm bớt số lượng sự hiện diện ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau, để tất cả các chị em đều được đảm bảo quyền được sống một cuộc sống chiêm niệm Phan Sinh đầy đủ và xứng đáng cho đến thời khắc cuối của cuộc đời.
“Mỗi người sẽ lãnh triều thiên hoàng hậu, trên trời cao cùng Trinh Mẫu Maria”: niềm hy vọng cánh chung
Niềm hạnh phúc trong cơn bệnh tật của một chị em hay của người khác, hay sự lạc quan bất chấp hoàn cảnh ốm đau, chỉ có thể được khi có cái nhìn về một giá trị to lớn vượt trên nỗi lo lắng về sức khỏe của bản thân hay sự thịnh vượng cá nhân, một điều gì đó mang lại ý nghĩa thực sự cho mọi thứ và nhờ nó mà người ta trao ban mọi sự. Đối với chúng ta là các Kitô hữu, điều có thể mang lại ý nghĩa đích thực cho mọi kho tàng ẩn giấu hoặc viên ngọc quý đáng để bán mọi của cải[23] không gì khác hơn là tình yêu của Đức Kitô được tuôn đổ trong lòng chúng ta qua Thánh Thần[24], chính là Vương Quốc của Thiên Chúa và đức công chính của Người[25]. Vương quốc của Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta[26] nhưng vẫn chưa trọn vẹn, ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian[27], vượt lên trên, chứa đựng chiều kích cánh chung mà đối với chị em, dưới nhãn quan của Phanxicô, ẩn dưới đó là chiều kích Thánh Mẫu học. Thực tế, trước đó khá lâu, trong bản văn đầu tiên gửi đến các Quý bà nghèo được biết đến như “mẫu thức đời sống”, Phanxicô xem cuộc sống của Clara và chị em bà như là một sự tiếp nối của kinh nghiệm của Đức Maria: ái nữ và nữ tì của Chúa Cha, hiền thê của Thánh Thần và người môn đệ tuyệt hảo của Đức Kitô[28], đến nỗi mà những người tìm cách kiên trì đến cùng trên con đường bước theo cuộc đời và sự nghèo khó của Đức Chúa tối cao Giêsu Kitô và Mẹ Rất thánh của Người, được định cho tham dự vào chung cục như Mẹ Thiên Chúa: trở thành những nữ hoàng với triều thiên trên trời cùng với “Bà Hoàng Thánh Thiện”[29] là Đức Maria. Khi đó, trong vĩnh cửu sự chuyển dịch từ các Quý Bà nghèo sang các Nữ hoàng được hoàn tất trong cuộc đời của chị em; nơi đây sự lớn lao của ơn gọi của chị em, nơi đây niềm hy vọng cánh chung qua đó chị em được kêu gọi!
Chị em thân mến, ước chi chị em làm mới lại đức tin trong năm thánh của niềm hy vọng, niềm hy vọng lớn lao được tham dự vào sự trọn vẹn đời sống trong Thiên Chúa, điều mà Đức Maria đã dấn bước trước chị em, bước đi trên con đường riêng của Mẹ: con đường của vâng lời, nghèo khó và phục vụ. Và cũng như chúng tôi cảm ơn chị em về chứng tá của chị em trong đời sống chiêm niệm Phan Sinh, sự gần gũi với Dòng Nhất và kinh nguyện quý giá của chị em, chúng tôi khẩn cầu trên mỗi chị em và tất cả các cộng đoàn của chị em những lời chúc lành chan chứa nhất từ Đấng là “Thiên Chúa tối cao, toàn năng và tốt lành”[30], hằng “khát khao” chị em trở thành những “nữ hoàng”.
Thân ái,
Anh Massimo Fusarelli, OFM
Anh Carlos Trovarelli, OFMConv
Anh Roberto Genuin, OFMCap
Thánh đường San Damiano, 01/08/2025
Khởi đầu Ơn đại xá Assisi
Chuyển ngữ: Vincent N.G.Luyện ofm
[1] Sưu tập Assisi 85,2.
[2] Sưu tập Assisi 85,3.
[3] Di chúc của thánh Clara 46.
[4] Fonti Clariane, edited by Giovanni Boccali, Portiuncula Ed., 2013, p. 1014.
[5] Chiara Augusta Lainati, in Fonti Francescane, Franciscan Ed., 2004, note 27, p. 1770.
[6] As can be seen from the names of the witnesses at the canonization process of Chiara, for example: Benvenuti da Perugia, Francesca de messer Capitaneo di Col de Meçço, Lucia di Roma, etc.
[7] x. Luật dòng thánh Clara 2,1
[8] Ga 14,6.
[9] Uvol 1-3
[10] Luật dòng thánh Clara 12,13.
[11] Di chúc của thánh Clara 73.
[12] Di chúc của thánh Phanxicô 3.
[13] Rm 8,5-9.
[14] Lksc 17,10-16.
[15] Lksc 17,11-12.
[16] Lsc 10,8.
[17] Cf. Pope Francis, Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium, Rome 2013, No. 93.
[18] Luật dòng thánh Clara 18,7.
[19] Huấn Ngôn 27,6.
[20] Di chúc của thánh Clara 2.
[21] Bài ca anh Mặt Trời 20-25.
[22] Gl 6,2.
[23] Mt 13,44-46.
[24] Rm 5,5.
[25] Mt 6,33.
[26] Lc 17,21.
[27] Ga 18,36.
[28] Form of Life 1.
[29] SalV 1.
[30] Bài ca anh Mặt Trời 1.
Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.
Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.