Skip to content
Main Banner
Thánh Têrêsa Hài Đồng (01/10)
Ngôn ngữ

BỐI CẢNH SÁNG TÁC “ITINERARIUM MENTIS IN DEUM”

BTT OFMVN 01
2025-10-20 06:06 UTC+7 18

THÁNH BONAVENTURE & ITINERARIUM MENTIS IN DEUM

(LỘ TRÌNH TÂM LINH)

Biên Soạn: Joseph Tân Nguyễn ofm


BỐI CẢNH SÁNG TÁC “ITINERARIUM MENTIS IN DEUM”

TÁC PHẨM “ITINERARIUM MENTIS IN DEUM”

  • LỜI NGỎ CỦA THÁNH BONAVENTURA

  • CHƯƠNG MỘT:

    NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LÊN CÙNG THIÊN CHÚA VÀ SUY GẪM VỀ NGƯỜI QUA CÁC DẤU TÍCH CỦA NGƯỜI TRONG VŨ TRỤ

  • CHƯƠNG HAI

    SUY GẪM VỀ THIÊN CHÚA NƠI NHỮNG DẤU TÍCH CỦA NGƯỜI TRONG THẾ GIỚI KHẢ GIÁC NÀY

  • CHƯƠNG BA:

    CHIÊM NGẮM THIÊN CHÚA QUA HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI ĐƯỢC KHẮC GHI TRONG CÁC CHỨC NĂNG TỰ NHIÊN CỦA CHÚNG TA

  • CHƯƠNG BỐN:

    CHIÊM NGẮM THIÊN CHÚA NƠI HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI ĐƯỢC TÁI TẠO NHỜ ÂN SỦNG

  • CHƯƠNG NĂM:

    CHIÊM NGẮM TÍNH DUY NHẤT QUA TÊN GỌI HỮU THỂ

  • CHƯƠNG SÁU:

    CHIÊM NGẮM BA NGÔI NƠI DANH HIỆU THIỆN HẢO

  • CHƯƠNG BẢY:

    CUỘC ĐI LÊN HUYỀN NHIỆM CỦA TÂM HỒN, LÝ TRÍ ĐƯỢC AN NGHỈ; LÒNG CẢM MẾN HOÀN TOÀN TIẾN VÀO THIÊN CHÚA

TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU THÊM


BỐI CẢNH SÁNG TÁC “ITINERARIUM MENTIS IN DEUM”

Thánh Bonaventura ra đời năm 1217, tại một làng nhỏ nằm trên đồi Bagnoregio miền trung nước Ý, giữa Viterbo và Orvieto.  Cha của ngài, Giovanni di Fidanza là một y sĩ.  Mẹ ngài tên là Maria di Ritello.  Khi đưa ngài đi rửa tội, người ta lấy tên cha ngài, Giovanni, để đặt cho ngài.  Bonaventura trưởng thành dưới ảnh hưởng của Công Đồng Chung Lateranô IV.  Khi ngài sinh ra thì Dòng Phanxicô đang ở cao điểm phát triển của giai đoạn đầu.  Cả hai Thánh Phanxicô và Thánh Clara đều có nhiều môn đệ.  Khi Bonaventura còn đang ở tiểu học, tại làng Bagnoregio có một convento, tức là một chi nhánh của dòng Phanxicô.  Bonaventura kể lại một biến cố khi ngài còn trẻ như sau:

“Khi tôi còn bé, khoảng mười một tuổi, tôi vẫn còn nhớ rất rõ, tôi được cứu khỏi lưởi hái của tử thần và sức khỏe tôi được hồi phục do lời cầu bầu và công trạng của Thánh Phanxicô.  Do đó, nếu tôi giữ thinh lặng, không dâng lời ca tụng ngài, tôi e rằng tôi sẽ bị tố cáo là vô ơn.  Biến cố này giúp tôi hiểu là qua Thánh Phanxicô, Thiên Chúa đã cứu tôi và cho tôi cảm nghiệm quyền năng của Người ngay trong bản thân tôi.”

Ngoài biến cố trên đây, những ngày tháng trẻ của Bonaventura trải qua một cách êm đềm.  Ngài có nhiều bạn bè và vui sống tuổi vị thành niên như bao nhiêu chàng trai trẻ khác trong làng.  Nhưng Thiên Chúa đã có dự tính cho cuộc đời ngài.  Khi lên mười bảy tuổi, năm 1234, Bonaventura đăng ký vào ngành nhân văn (triết) tại Đại Học Paris, ở một kinh đô tráng lệ rất khác biệt với quê hương trầm lặng của ngài.

Tuy nhiên cuộc sống mới tại kinh thành ánh sáng này bắt đầu mở ra cho Bonaventura một chân trời mới.  Phối cảnh trí thức của Đại học Paris tràn ngập đầu óc ngài với bao ý tưởng mới, học thuyết lạ, và cả những vấn nạn mà trước đây ngài chưa bao giờ có thể nghĩ đến.  Một giáo sư nổi tiếng tại Paris mà ngài rất hâm mộ là Alexander thành Hales, một linh mục với chức sắc “Tổng Phó Tế” (Arch Deacon) thành Coventry.  Khi Bonaventura bắt đầu năm thứ nhì tại Đại học, năm 1236, học giả người Anh lỗi lạc này quyết định gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn, khiến cho không chỉ Bonaventura mà cả cộng đồng sinh viên, giáo sư tại Paris kinh ngạc.  Với biến cố này, Alexander đương nhiên chuyển ghế giáo sư Đại học của ngài—và cả Bonaventura nữa—về hội dòng Phanxicô.   Như thế, kể từ đây một Học Viện Phan Sinh được thành hình.  Lúc ấy Bonaventura còn quá trẻ để thấu hiểu trọn vẹn ý nghĩa của các biến chuyển này.

Trong khi Alexander tiếp tục thuyết giảng thần học thì Bonaventura bắt đầu cảm thấy đang bị lôi cuốn bởi cuộc sống và linh đạo của Con Người Khó Nghèo gốc Assisi.  Và chẳng bao lâu, năm 1243, Bonaventura cũng trở thành một tập sinh của Dòng Anh Em Hèn Mọn.  Hai năm sau đó, Alexander, vị giáo sư và giám học đáng kính của ngài qua đời.  Bonaventura tiếp tục công việc học hành và nghiên cứu cho đến năm 1248, khi ngài đậu bằng Cử Nhân Thần học.  Ngài khởi sự giảng thuyết về Kinh Thánh trong hai năm đầu, rồi từ 1250 đến 1252, sáng tác bộ Bình Luận về Các Luận Đề của Peter Lombard, và tiếp tục thuyết giảng về Các Luận Đề này.  Vào khoảng năm 1253 hoặc 1254, Bonaventura được trao ghế Giáo Sư Thần học tại Đại Học Paris, và chỉ định giữ chức Giám học tại Học Viện Phan Sinh mà vị thầy đáng kính của ngài đã đảm nhiệm lúc còn sinh thời.

Với chức vụ và trách nhiệm mới, Bonaventura vẫn tiếp tục tra cứu, biên soạn và thuyết giảng với cả lòng nhiệt thành hăng say.  Năm 1256, Bonaventura dính líu vào cuộc tranh luận sôi nổi tại Đại học Paris về linh đạo “khó nghèo.”  Vấn đề được nêu ra là liệu “khó nghèo” có phải điều kiện tất yếu cho cuộc sống Kitô hữu trung thực, và do đó xứng đáng là một chủ đề cho suy tư thần học?  Các Dòng Khất Sĩ mới thành lập, kể cả Dòng Anh Em Hèn Mọn, bị tấn công từ nhiều phía.  Trước sự kiện như thế, Bonaventura sáng tác “Bảo Vệ các Dòng Khất Sĩ” (Defense of the Mendicants) để phát biểu lập trường của ngài và bênh vực cách hùng hồn giá trị của đời sống khất sĩ.  Cuối cùng ngài đã thuyết phục được các giới thẩm quyền và giáo quyền tại Paris.  Kết quả là cả hai học giả Khất sĩ danh tiếng thời đó, Tôma Aquinô và Bonaventura được mời giữ các chức Phân Khoa Trưởng (Regent Masters) tại Đại học Paris.  Danh xưng thì không quan trọng cho bằng sự việc cả hai dòng Khất sĩ từ đây được công nhận là thành phần chính thức trong ban điều hành và giáo sư của Đại Học Paris.

Đây là thời buổi có nhiều sinh hoạt trí thức sôi nổi của nhà Dòng.  Bonaventura đã huấn luyện một số học sinh danh tiếng và sau này thành công như Peter John Olivi (+1298) với nhiều sáng tác nhiều bênh vực cho nhóm Phan Sinh Linh Đạo (The Spirituals); John Pecham (+1292), Tổng Giám Mục của Cantebury; và Raymond Lull (+1315), một nhà thần nghiệm, truyền giáo và tử đạo.

Thời ấy tin tức lan truyền khá nhanh. Tại Paris, Bonaventura nghe tin về sự căng thẳng đang xảy ra giữa các Anh Em muốn trung thành tuân giữ qui luật Cha Thánh cách tuyệt đối và các Anh Em khác chuộng cải cách và thay đổi cho thích ứng với hoàn cảnh bành trướng nhanh chóng của hội Dòng.  Một nguồn tin bất ổn hơn nữa là có một số Anh Em Phan sinh đang có xu hướng dùng tư tưởng lạc giáo của Joachim thành Fiore để giải thích linh đạo của Cha Thánh.  Cũng có tin đồn là cả vị Tổng Phục Vụ, John of Parma, cũng bị tác động bởi ảnh hưởng của nhóm lạc giáo này. Khi tin này đến Paris, Bonaventura cảm thấy rụng rời; tất cả sự nghiệp và lý tưởng Phan sinh của ngài hầu như muốn sụp đổ trước mắt.

Đức Giáo Hoàng Alexander IV đã bí mật ra lệnh cho John of Parma từ chức Tổng Phục Vụ.  Bonaventura rất buồn, vì John là một con người đạo hạnh, được mọi Anh Em Phan sinh quí mến.  Một tin khác nữa cũng mới đến Paris, nhưng không là tin đồn mà là sự thật.  Sau khi John of Parma từ chức, Đức Giáo Hoàng đề cử tên của Bonaventura lên thay thế.  Và như thế, năm 1257, Tổng Tu Nghị đã bầu Bonaventura làm vị Tổng Phục Vụ thứ bảy cho Dòng Anh Em Hèn Mọn, đúng ba mươi mốt năm sau khi Thánh Phanxicô qua đời.

Lúc ấy Bonaventura đã bốn mươi tuổi, tuy ở tuổi trung niên nhưng ngài cảm thấy chưa sẳn sàng để gánh vác trách nhiệm nặng nề được giao phó.  Tuy nhiên Bonaventura phó thác cho Chúa và chấp nhận vai trò mới và khởi đầu nhiệm kỳ với những gì ngài quen thuộc và có năng khiếu nhất, đó là sáng tác.  Ngài viết một Thư Luân Lưu cho tất cả các Tỉnh Phục Vụ trong Dòng.  Chúng ta hãy tìm hiểu một ít về lá thư này, bởi vì sự lạnh nhạt của Anh Em Phan sinh đối với thư này mà đã thúc đẩy Bonaventura lên núi LaVerna khao khát và tìm kiếm sự bình an cho tâm hồn, và như thế bắt đầu cuộc hành trình của ngài lên đến Thiên Chúa.

Trong lá thư Luân Lưu, Bonaventura bắt đầu bằng những lời này: “Danh dự của Dòng chúng ta đang bị lu mờ: hiện đang có một số các Anh Em sống không xứng đáng với lý tưởng cao quí của chúng ta.” Rồi ngài nêu ra mười điểm ngài cảm thấy cần phải cải hóan trong đời sống Anh Em Phan sinh:

1.         Nhiều cách Anh Em kiếm tiền mờ mịt đang xảy ra.

2.         Sự biến nhát trong một số Anh Em.

3.         Nhiều Anh Em lữ hành, lang thang nay đây mai đó.

4.         Cung cách khất thực quá hồ đồ khiến cho nhiều người sợ gặp Anh Em như gặp một kẻ cướp.

5.         Sự lộng lẫy và nguy nga của các tu viện.

6.         Tình cảm quá thân mật của Anh Em đối với một số giáo dân (đặc biệt là giáo dân giàu có và thế lực).

7.         Cách trao chức ban quyền thiếu khôn ngoan trong Dòng.

8.         Tham vọng về nơi chôn cất và tài sản kế thừa.

9.         Thường xuyên tân trang chổ cư trú đơn sơ thành nơi đồ sộ.

10.       Lối sống xa hoa phí phạm của một số cộng đoàn.

Thánh Bonaventura có dự tính đi kinh lý các tu viện tại các nước Ý, Pháp, Đức và Anh.  Nhưng trước khi lên đường, ngài phải giải quyết vấn đề khẩn bách liên quan đến vị cựu Tổng Phục Vụ, John of Parma.  John bị tố cáo là theo chủ thuyết lạc giáo của Joachim.   John lớn tuổi hơn Bonaventura và được Anh Em kính trọng và quí mến.  Riêng Bonaventura, ngài kính phục John như một người “có học thức cao, khiêm nhường và đạo đức.”  Bonaventura không hiểu tại sao John lại dính líu với phái lạc giáo Joachim như thế này.  Ngài viết, “Lạc giáo là một sự kiện không tốt, cần phải được khai trừ.  Không gì nguy hiểm hơn cho hội Dòng bị tố cáo là đang che chở cho người lạc giáo. Không gì làm cho những kẻ chỉ trích được mãn nguyện hơn là hội Dòng đang bị lôi cuốn vào con đường lạc giáo.” Do đó Bonaventura phải ra tay hành động…  Nhưng ngài phải xử lý như thế nào cho xứng đáng với một vị tu sĩ đáng kính như John of Parma?  Ngay cả Đức Hồng Y Ottobono cũng đã xin ngài hãy nhẹ tay.  Cuối cùng, Bonaventura biết ngài phải làm gì.  Bonaventura gởi John đến Greccio, ở đó John sẽ sống những năm tháng còn lại trong bình an.  Đối với nhiều người, đây có thể xem như một hình phạt giam tù, nhưng ít ra, John sẽ tiếp tục sống với Anh Em và được cộng đoàn ở đó chăm sóc.

Điều mà Bonaventura không ngờ là quyết định của ngài đã đưa đến phản ứng giận dữ từ một số Anh Em.  Anh Angelo of Clareno mô tả việc John từ chức, việc Bonaventura được chọn làm Tổng Phục Vụ và nhiệm kỳ của ngài như là “khởi đầu cho giai đoạn bắt đạo thứ Tư.”  Đây thật là bất công cho Bonaventura; Angelo không hiểu tâm trạng của ngài.  Cùng lúc đó cũng có một số Anh Em khác lên tiếng chỉ trích và phê phán ngài.  Công việc hội dòng đòi hỏi Bonaventura phải vắng mặt Paris rất nhiều.  Tuy vậy, ngài vẫn cố gắng chu toàn trách nhiệm giảng thuyết, nghiên cứu và sáng tác thường niên của ngài tại Paris.  Ngài muốn cho mọi người biết là Anh Em Phan sinh có thể vừa là một thần học gia vừa là một đồ đệ trung thành với lý tưởng của Thánh Phanxicô.  Cho dù với nhiều cố gắng, Bonaventura vẫn bị một số Anh Em hiểu lầm.  Bonaventura cảm thấy rất đau lòng khi đọc được lời trách móc của Anh Giles: “Paris, Paris, tại sao ngươi muốn tàn phá Hội Dòng của Thánh Phanxicô?”  Anh Jacopone da Todi cũng thốt lên những lời than vãn tương tự: Mal vedemmo Parisci, chane destrutto Ascisi! (Paris đem điềm dữ, đem cái chết cho Assisi!)  Nhưng điều này đã không đúng; Paris không sát hại Assisi như Anh Em nghĩ.  Bonaventura không thể chấp nhận nhưng lời phê phán như thế nữa.

Bonaventura đang miệt mài và hăng say với công việc giảng dạy và nghiên cứu của ngài tại Đại học Paris.  Ngài không đòi hỏi hay yêu cầu được đưa vào vai trò Tổng Phục Vụ.  Là một học giả ở tuổi trung niên, Ngài đang còn dồi dào năng lực và ý tưởng cho việc sáng tác.  Nhưng vai trò và trách nhiệm phục vụ các Anh Em đã làm cho ngài nản chí và âu lo không ít.  Vì thế, vào tháng Mười, năm 1259 Bonaventura với một tâm trạng rối bời và bất ổn, “một lòng khao khát bình an, rút lên núi LaVerna, tìm nơi vắng vẻ thinh lặng, ao ước mong được sự thanh thản cho tâm hồn.”   Chính nơi đây, Bonaventura đã sáng tác các bài suy gẫm, Hành Trình của Con Người lên tới Thiên Chúa.

Xuống khỏi núi LaVerna với những kinh nghiệm và cảm thức tuyệt vời, tinh thần Bonaventura được bồi dưỡng và củng cố để chuẩn bị cho tổng Tu Nghị trong được tổ chức trong năm mới, 1260, tại Narbonne.  Dòng Anh Em Hèn Mọn đang cần cải tổ lại qui luật cho đời sống Anh Em, việc này đòi hỏi phải soạn thảo một Hiến Chương mới.  Hầu như việc soạn thảo Hiến Chương mới là chưa đủ, tổng Tu Nghị còn đề nghị Bonaventura viết lại một Tiểu Sử mới về Cha Thánh, với mục đích thay thế cho các bộ Tiểu Sử trước đó.   Sau này, tại tổng Tu Nghị ở Paris năm 1266, Anh Em ra lệnh hủy bỏ tất cả các Tiểu Sử được viết trước đây về Thánh Phanxicô, và ban hành tác phẩm của Bonaventura như là bản Tiểu Sử chính thức của Hội Dòng.

Trước đó một năm, tức là năm 1265, khi Bonaventura được bốn mươi tám tuổi, Đức Giáo Hoàng đề cử ngài làm Tổng Giám Mục cho thành York, nhưng ngài từ chối lấy cớ phải phục vụ Anh Em.  Bonaventura đã có công qui tụ Anh Em và tổ chức các tổng Tu Nghị ở Pisa (1263), Paris (1266), Assisi (1269), Lyon (1272).  Các tổng Tu Nghị này cũng đủ làm cho ngài bận rộn và tổn hao sức lực rất nhiều.   Tiêu biểu là Tu Nghị tại Pisa năm 1263.  Phanxicô luôn muốn Anh Em săn sóc và chu cấp cho các Chị Em Clara Thanh bần.  Clara tôn trọng nguyện vọng này của Phanxicô và đã ghi điều đó vào Luật Dòng 1253 của ngài.  Giờ đây, Anh Em muốn xin được miễn chuẩn khỏi trách nhiệm đối các Chị Em Clara Thanh bần.  Đức Giáo Hoàng Urbanô IV lúc đẩu phản đối sự tách biệt này.  Bonaventura viết cho Anh Lothario vào cuối tháng Chín giải thích việc Anh Em săn sóc các Chị Em Thanh bần là điều tốt nên tiếp tục.  Tuy nhiên, vào ngày 18, tháng Mười, năm 1263 một bản Luật Dòng mới do Đức Giáo Hoàng Urbanô IV phê chuẩn, buộc các Chị Em Clara Thanh bần chấp nhận thực tại là các Anh Em Khó Nghèo không thể tiếp tục cấp dưỡng cho họ.  Bonaventura lấy làm tiếc nuối là sự tách biệt cuối cùng này.

Một ngày trong năm 1273, khi Bonaventura đang rửa chén trong bếp cùng với một số Anh Em thì có tin báo là ngài đã được chỉ định làm Hồng Y và được lệnh triệu tập về Rôma vào mùa Thu năm đó.  Đến tháng Mười năm 1273, tại Lyon, Bonaventura được tấn phong Giám Mục thành Albano.  Mùa đông năm đó, Bonaventura tham dự Công Đồng Lyon và sau đó đứng ra tổ chức một Tổng Tu Nghị vào tháng Năm, 1274.  Tại Tu Nghị này, ngài từ chức viện lý do sức khỏe.  Và cuối cùng Chị Chết đã viếng thăm Bonaventura vào ngày 15, tháng Bảy, năm 1274, lúc ngài còn năm mươi bảy tuổi.

Trước khi Bonaventura qua đời, Anh Giles đến hỏi ngài câu này: “Chỉ những người học cao mới được trở nên thánh hay sao?”  Ngài trả lời: “Nếu Thiên Chúa ban cho ta ân sủng để biết sống yêu thương thì đó là đủ rồi!”  Anh Giles tiếp tục hỏi: “Như thế thì một người ngu đần cũng có thể yêu Chúa như là một vị tiến sĩ?  Vị học giả của Đại Học Paris trả lời: “Một người đàn bà nhỏ bé nghèo khổ cũng có thể yêu Chúa hơn là một vị tiến sĩ thần học.”  Nghe xong, Anh Giles, hăng hái, nhảy lên vui mừng và la to: “Người đàn bà nhỏ bé nghèo hèn ơi! Đơn sơ và ngu dốt như bà, hãy yêu Chúa và bà có thể trở nên cao cả hơn là Anh Bonaventura!”

Vào ngày 14 tháng Tư, 1482 Bonaventura được Giáo hội tôn vinh lên hàng hiển thánh.  Với sự kiện phong thánh này, tất cả sáng tác của Bonaventura đều được Giáo hội công khai chấp nhận.  Cũng qua đó, Giáo hội đã chính thức chấp nhận nền thần học Phan sinh mà Bonaventura đã góp công xây dựng và khai triển.  Hơn một thế kỷ sau đó, vào ngày 14 tháng Ba năm 1588, Bonaventura được tấn phong với danh hiệu Vị Tiến Sĩ Chí Ái (Seraphic Doctor) của Giáo hội.

Tác phẩm “Itinerarium Mentis in Deum” được ra đời trong tâm trạng rối bời của Thánh Bonaventure lên núi La Verna để tìm kiếm sự bình an. Trong suốt bốn năm sau khi nhận ghế Giáo Sư và Giám học thay thế vị thầy của mình, Alexander of Hales đã mất, Bonaventure phải đương đầu với nhiều thử thách giữa những sinh hoạt trí thức sôi nổi tại Đại Học Paris. Trước các học giả, Bonaventure đã phải bênh vực cho linh đạo “khó nghèo” qua sáng tác “Defense of the Mendicants”. Trong Hội Dòng cũng có sự căng thẳng giữa các Anh Em muốn tuân giữ qui luật Cha Thánh cách tuyệt đối và các Anh Em chuộng cải cách cho thích ứng với hoàn cảnh bành trướng nhanh chóng của Hội Dòng. Nhưng sự bất ổn thực sự bắt đầu với tin tức là có một số anh em và John of Parma, TPV đang bị tác động bởi tư tưởng lạc giáo của Joachim thành Fiore. ĐGH Alexander IV bí mật ra lệnh cho John Parma từ chức và đề cử Bonaventure lên thay thế. Thế là năm 1257, ba mươi mốt năm sau khi Thánh Phanxicô qua đời, ở cái tuổi bốn mươi, Bonaventure phải đảm nhận vai trò TPV thứ VII cho Hội Dòng. Dù chưa sẵn sàng để gánh vác trách nhiệm nặng nề được giao phó, nhưng ngài phó thác cho Chúa. Ngài dự tính đi kinh lược tại các nước Âu Châu, nhưng phải giải quyết vấn đề John Parma trước khi lên đường. Bị đặt vào thế khó xử, Bonaventure cuối cùng phải gởi John Parma, một vị bề trên đáng kính và được anh em yêu quí, đến sống những năm tháng còn lại trong bình an tại Greccio. Quyết định này đã làm cho nhiều anh em rất tức giận, xem đó như một hình phạt giam tù.

Vấn đề thứ nhì, sau khi đi kinh lược về, Bonaventure viết một thư cho Hội Dòng bắt đầu bằng những lời này: “Danh dự của Dòng chúng ta đang bị lu mờ vì hiện đang có một số các Anh Em sống không xứng đáng với lý tưởng cao quí của Cha Thánh...” Thêm vào đó, ngài liệt kê mười tệ nạn đang xảy ra trong đời sống Anh Em: (1) Nhiều cách anh em kiếm tiền mờ mịt đang xảy ra; (2) Sự biến nhát trong một số anh em; (3) Nhiều anh em lữ hành, lang thang nay đây mai đó; (4) Cung cách khất thực quá hồ đồ khiến cho nhiều người sợ gặp anh em như gặp một kẻ cướp; (5) Sự lộng lẫy và nguy nga của các tu viện; (6) Tình cảm quá thân mật của anh em đối với một số giáo dân, đặc biệt là giáo dân giàu, và có thế lực; (7) Cách trao chức ban quyền thiếu khôn ngoan trong Dòng; (8) Tham vọng về nơi chôn cất và tài sản kế thừa; (9) Thường xuyên tân trang chổ cư trú đơn sơ thành nơi đồ sộ; (10) Lối sống xa hoa phí phạm của một số cộng đoàn.  Lá thư này cùng với sự tức giận của anh em về sự kiện John Parma đã đem lại nhiều phản ứng tiêu cực và lạnh nhạt đối với Bonaventure. Trong một tâm trạng rối bời và bất ổn, vào tháng Mười, năm 1259 Bonaventure “rút lên núi LaVerna, tìm nơi vắng vẻ thinh lặng, ao ước mong được sự thanh thản cho tâm hồn.”  Chính nơi đây, Bonaventure đã sáng tác “Itinerarium”. 

Xuống khỏi núi LaVerna, tinh thần Bonaventure được bồi dưỡng và củng cố để chuẩn bị cho việc soạn thảo một Hiến Chương mới cho Tổng Tu Nghị được tổ chức năm sau đó tại Narbonne.  Bonaventure được đề nghị viết lại một tiểu sử mới về Cha Thánh. Năm 1265, ngài từ chối đề cử làm Tổng Giám Mục cho thành York, lấy cớ phải phục vụ Anh Em. Công việc tổ chức các tổng Tu Nghị ở Pisa (1263), Paris (1266), Assisi (1269), Lyon (1272) đã tổn hao sức lực ngài rất nhiều. Một ngày trong năm 1273, khi Bonaventure đang rửa chén thì có tin báo là ngài được chỉ định làm Hồng Y và mùa thu năm đó được triệu tập về Rôma. Năm sau đó, ngài dự Công Đồng Lyon và đứng ra tổ chức một Tổng Tu Nghị vào tháng Năm. Tại Tu Nghị này, viện lý do sức khỏe, Bonaventure từ chức và chị Chết đã viếng thăm ngài ngày 15, tháng Bảy, năm 1274, lúc năm mươi bảy tuổi. Bonaventure được Giáo hội tôn vinh lên hàng hiển thánh vào ngày 14 tháng Tư, 1482, và tuyên bố là Vị Tiến Sĩ Chí Ái (Seraphic Doctor) của Giáo hội vào ngày 14, tháng Ba, năm 1588.

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt “Itinerarium” là hình ảnh thế giới mà con người đang sống như là sự thiện hảo tuôn trào từ Đấng Tối Cao. Vì thế, linh đạo là một cuộc hành trình hoán cải, trở về với Thiên Chúa Ba Ngôi, vốn là nguồn và là nguyên nhân của mọi hiện hữu.  Ngài lấy lại thị kiến thiên thần sáu cánh của Phanxicô để tạo nên bố cục cho cuộc hành trình gồm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn có 2 bước: đi vào và đi lên. Giai đoạn I gồm bước (1) quan sát các hoạt động của tạo vật vô tri, và bước (2) quan sát cách sự vật đi vào tâm trí con người, với mục tiêu biện phân các dấu vết của Thiên Chúa Ba Ngôi trong thụ tạo. Giai đoạn II gồm bước (3) quan sát cách lý trí nắm bắt sự hiệp nhất của các hoạt động của trí khôn, và bước (4) cách tri giác được soi sáng để nhận diện hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi qua tin, cậy, mến. Giai đoạn III gồm bước (5) biện phân các phẩm tính của Hữu Thể tinh tuyền, và bước (6) biện phân các phẩm tính của Sự Thiện tối cao. Cuối cùng linh hồn được an nghĩ trong Thiên Chúa, một trải nghiệm thần bí như đang bao phủ bởi đám mây vô tri.

Trong tác phẩm này, Bonaventure xem cả thế giới “tự nhiên” lẫn “siêu nhiên” đều xuất phát từ Thiên Chúa. Chúng ta không bao giờ quan sát một vũ trụ tự tại độc lập, nhưng tất cả xuất phát từ Thiên Chúa; tạo thành chính là sự lan tỏa của Sự Thiện tối cao. Tạo thành là bước đầu và Nhập Thể/Cứu Độ là cao điểm hoàn tất của sự lan tỏa này. Bonaventure dùng triết học để khai triển tri thức của chúng ta về Thiên Chúa. Ngài kết nối học thuyết soi sáng của Augustine và thần bí học của Plotinus để bổ túc cho triết lý Aristote. Trí khôn có tri giác về vũ trụ bên ngoài là do ánh sáng thể lý, nhưng trí khôn cũng nhận thức những chân lý vĩnh cửu từ bên trong, đó là do ánh sáng Vĩnh cửu đang chiếu soi trên tâm hồn của chúng ta. Từ hai lộ trình từ ngoài vào trong, và từ dưới lên trên, lý trí con người nhận ra rằng thụ tạo là sự tuôn trào (fecunditas) của sự Thiện tối cao vốn là nguồn và là tác giả của mọi sự thiện trên trần gian. Trí khôn con người có thể nhận ra rằng thực tại như là sự lan tỏa của sự Thiện. Theo Bonaventure, có 2 phương thức “lan tỏa” của Sự Thiện: lan tỏa vĩnh hằng (Ba Ngôi Thiên Chúa), và lan tỏa trong thời gian (tạo thành & nhập thể).  Sự lan tỏa của Sự Thiện trong thời gian có thể nhận thức được qua 3 cấp độ: “vết tích” (vũ trụ), “hình ảnh” (con người), và “bản sao hữu hình” của Thiên Chúa vô hình (Đức Kitô). “Itinerarium” là một cuộc hành hương tâm linh, qua đó tâm hồn lội ngược dòng chảy của lan tỏa của Sự Thiện, và nhận diện Thiên Chúa qua ba giai đoạn: thanh tẩy, soi sáng và kết hiệp.

Là một nhà thần học, Bonaventure bị lôi cuốn bởi viễn tượng và lòng sốt mến của Thánh Phanxicô, và không thể tách mình ra khỏi sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi ở nhiều cấp độ khác nhau trong thế giới. Ngài nhận ra tính phong nhiêu của vũ trụ: thực tại trở thành dấu vết, bảng chỉ đường, hình ảnh, và lộ trình mà chúng ta cần phải theo để kết hiệp với Thiên Chúa. Ba đôi cánh thiên thần trong thị kiến của Phanxicô biểu hiện cho ba mức độ ta có thể chiêm ngắm các hoạt động của Thiên Chúa từ: “bên ngoài” (thụ tạo tự nhiên), “bên trong” (tâm hồn), “bên trên” (qua tên gọi “Hữu Thể” và “Thiện Hảo”). Trong tiến trình “đi lên” này, hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi càng tỏ hiện rõ ràng và gần chúng ta hơn qua sự hoán cải và soi sáng của các ân sủng Tin, Cậy, Mến.  Nếu thụ tạo là sự phát tỏa của sự Thiện, thì con người là công cụ để sự Thiện được liên tục phát tỏa. Đây là một linh đạo tự nguyện, gói ghém trong “Kinh Hòa Bình”, hạnh phúc con người được tìm thấy trong mức độ dấn thân và hành trình hoán cải của tâm hồn.

(1) Thanh Tẩy: tri giác con người như những tấm gương xuyên qua đó chúng ta nhìn thấy thế giới, và cũng là nơi phản chiếu hình ảnh của thế giới. Cả hai tấm gương này cần được lau sạch (thanh đạo) để chúng ta nhận ra dấu vết của Thiên Chúa Ba Ngôi xuyên qua các loài thụ tạo, và trong mối tương quan giữa thế giới và tri giác con người. Muốn thế, cả 2 tấm gương cần được lau sạch khỏi những tổn thương hay đam mê (ngoài) và xung lực hay điểm mù (trong). Để phục hồi lại sự bình an, tâm hồn cần phải được thanh tẩy (carthasis), trút bỏ những ám ảnh và âu lo để được thảnh thơi nhận ra thực tại của sự thiện chung quanh chúng ta. Qua hành vi dọn sạch ngôi nhà, lo lắng nhu cầu tiếp đón khách của Marta vẫn muốn tiếp tục làm chủ các dự phóng của mình. Đức Kitô mời gọi Martha lau sạch tấm gương bên trong, đó là sự bực tức hay tâm tư bất ổn khi so sánh sự bận rộn của mình với tư thế ngồi lắng nghe Chúa của Mary.  

(2) Soi Sáng: Bên trong tâm hồn con người, tri thức là sự giao thoa liên tục giữa trí nhớ, trí năng và ý chí, vốn cho thấy hình ảnh Ba Ngôi đang hoạt động trong chúng ta. Kế tiếp, một khi các giác quan được soi sáng bởi các ân sủng Tin, Cậy, Mến, linh hồn có thể tiến lên cách thần bí để thấy, nghe, ngửi, nếm, và chạm vào mầu nhiệm Thiên Chúa đang lôi cuốn mình, qua tình yêu khổ nạn của Ngôi Hai. Khi đối diện với sự thông tri này, tâm hồn chỉ có thể ngồi yên, lắng nghe và chiêm ngắm Ngôi Lời đang hiện diện một cách khiêm hạ. Qua đó, tâm trí được soi sáng, các giác quan thể lý được cải biến, chúng ta sẽ ý thức và cảm nhận được sự thôi thúc của Thần Khí đang tác động bên trong tâm hồn mình. Hình ảnh của Mary đã “chọn phần tốt hơn” khi ngồi, say mê lắng nghe lời Chúa, nói lên hạnh phúc của người đang được tháp nhập vào các hoạt động của Thiên Chúa Ba Ngôi trong tâm hồn. Ở giai đoạn này, con người khám phá ra Thiên Chúa Ba Ngôi thì gần gũi với mình hơn là sự nhận thức của mình. Không chỉ hoạt động của tâm trí mang hình ảnh Ba Ngôi mà chính sự thiện đó đã soi sáng, nâng tâm trí lên mức độ siêu việt hơn.

(3) Kết Hiệp: Ở giai đoạn cuối, tâm hồn bị cuốn hút vào sự kết hiệp thần bí, nhận ra Thiên Chúa là tất cả, đầu và cuối, nguồn và sự sống, tinh tuyền và tối cao, trung tâm hiệp nhất và chu vi của mọi sự hiện hữu. Con mắt tâm hồn tìm kiếm Thiên Chúa, giờ đây được chìm đắm và say mê với hình ảnh của hai Thiên Thần quỳ chầu trên nắp xá tội đang tôn thờ sự hiện diện của Đấng Tối Cao. Hai Vị này cũng là biểu hiện cho hai tên gọi về Thiên Chúa, “Hữu Thể” và “Thiện Hảo” từ Cựu Ước và Tân Ước. Đây là điểm đến, nơi an nghĩ cho những con mắt đang mong mỏi tìm kiếm điểm tựa, và cho những tâm hồn đang khắc khoải tìm kiếm sự an nghĩ. Giờ đây, ý thức rằng tất cả tồn tại là sự lan tỏa của Sự Thiện Tối Cao, “summum unum”, tâm hồn tìm được sự bình an trong sự quan phòng và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Tâm hồn được nghỉ ngơi, phó thác cho đến khi được Chúa đánh thức dậy, cũng như Lazarô nằm nghỉ cho đến khi được gọi ra khỏi mồ. Nếu hạnh phúc tối hậu của con người là được kết hiệp với Thiên Chúa, thì đây là sự kết hiệp thần bí mà tâm hồn đang mong chờ.


👉 (đọc tiếp các chương tiếp theo tại đây)

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.