Skip to content
Main Banner
Thánh Têrêsa Hài Đồng (01/10)
Ngôn ngữ

SUY GẪM VỀ THIÊN CHÚA NƠI NHỮNG DẤU TÍCH CỦA NGƯỜI TRONG THẾ GIỚI KHẢ GIÁC NÀY

BTT OFMVN 01
2025-10-20 08:20 UTC+7 17

THÁNH BONAVENTURE & ITINERARIUM MENTIS IN DEUM

(LỘ TRÌNH TÂM LINH)

Biên Soạn: Joseph Tân Nguyễn ofm


BỐI CẢNH SÁNG TÁC “ITINERARIUM MENTIS IN DEUM”

TÁC PHẨM “ITINERARIUM MENTIS IN DEUM”

  • LỜI NGỎ CỦA THÁNH BONAVENTURA

  • CHƯƠNG MỘT:

    NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LÊN CÙNG THIÊN CHÚA VÀ SUY GẪM VỀ NGƯỜI QUA CÁC DẤU TÍCH CỦA NGƯỜI TRONG VŨ TRỤ

  • CHƯƠNG HAI

    SUY GẪM VỀ THIÊN CHÚA NƠI NHỮNG DẤU TÍCH CỦA NGƯỜI TRONG THẾ GIỚI KHẢ GIÁC NÀY

  • CHƯƠNG BA:

    CHIÊM NGẮM THIÊN CHÚA QUA HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI ĐƯỢC KHẮC GHI TRONG CÁC CHỨC NĂNG TỰ NHIÊN CỦA CHÚNG TA

  • CHƯƠNG BỐN:

    CHIÊM NGẮM THIÊN CHÚA NƠI HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI ĐƯỢC TÁI TẠO NHỜ ÂN SỦNG

  • CHƯƠNG NĂM:

    CHIÊM NGẮM TÍNH DUY NHẤT QUA TÊN GỌI HỮU THỂ

  • CHƯƠNG SÁU:

    CHIÊM NGẮM BA NGÔI NƠI DANH HIỆU THIỆN HẢO

  • CHƯƠNG BẢY:

    CUỘC ĐI LÊN HUYỀN NHIỆM CỦA TÂM HỒN, LÝ TRÍ ĐƯỢC AN NGHỈ; LÒNG CẢM MẾN HOÀN TOÀN TIẾN VÀO THIÊN CHÚA

TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU THÊM


CHƯƠNG HAI
SUY GẪM VỀ THIÊN CHÚA NƠI NHỮNG DẤU TÍCH CỦA NGƯỜI TRONG THẾ GIỚI KHẢ GIÁC NÀY

1. Nhờ tấm gương thế giới khả giác, thì ta có thể chiêm ngắm Thiên Chúa không chỉ qua các thụ tạo, nhưng còn nơi chính chúng nữa, theo mức độ Thiên Chúa cư ngụ trong chúng bằng bản chất, quyền năng và hiện diện. Cách suy gẫm này thì cao hơn cách suy gẫm trước đây. Do đó, đây la bậc cấp thứ hai của việc chiêm niệm. Nó dẫn đưa chúng ta tới chiêm ngắm Thiên Chúa nơi tất cả những thụ tạo khi chúng ta đi vào trong ý thức chúng ta qua các  giác quan thể lý .

2. Chúng ta cần lưu ý là thế giới bên ngoài, thế giới vĩ mô, đi vào trong con người chúng ta, thế giới vi mô, qua các cánh cửa của năm giác quan nhờ đó, ta có thể tiếp thu, thưởng thức và phán đoán. Điều này có thể được giải thích như sau. Trong thế giới khả giác, một số vật thể có khả năng làm phát sinh các vật thể khác, một số khác được sản sinh, và một số khác nữa điều khiển cả hai loại này.

Những vật thể làm phát sinh là những vật thể đơn giản: đó là các thiên thể và bốn nguyên tố tự nhiên. Bởi vì bất cứ những vật thể nào được sản sinh hay tạo nên nhờ hoạt động của năng lực tự nhiên thì phải được sản sinh hay tạo ra từ những nguyên tố này bằng năng lực của ánh sáng:  ánh sáng tạo nên sự hài hòa giữa những yếu tố trái nghịh nhau nơi các vật thể hỗn hợp.  Những vật thể được sản sinh là những vật thể được cấu tạo đơn thuần, ví dụ như các khoáng chất, cây cối, thú vật và thân thể con người.

Còn những thực thể điều hành cả hai loại vật thể nói trên là những thực thể tinh thần: chúng hoàn toàn gắn liền với vật chất như sinh khí của các súc vật, hoặc gắn liền nhưng có thể tách biệt với vật chất như ly trí, hay hoàn toàn tách biệt với vật chất như các thần minh thượng giới mà các triết gia gọi là bậc Anh Minh, còn chúng ta gọi là thiên thần. Theo các triết gia, những thần minh thượng giới này có phận vụ di chuyển các thiên thể. Bởi vì đó, công việc quản trị vũ trụ được giao cho họ vì họ đã nhận từ Đệ nhất Nguyên lý, tức là Thiên Chúa, quyền năng hoạt động mà họ thể hiện trong công việc quản trị. Công việc này bảo tồn sự bền vững tự nhiên của mọi thụ tạo. Nhưng theo các nhà thần học, việc cai quản vũ trụ của các thiên thần, theo lệnh truyền của Thiên Chúa tối cao, liên hệ tới công trình cứu chuộc. Bởi lý do này các thiên thần được gọi là: những quản gia thiêng liêng được sai đi đểmưu lợi cho lợi ích cho những kẻ được thừa hưởng ơn cứu độ (Dt 1,14).

3. Do đó, con người vốn được gọi là thế giới vi mô có năm giác quan: đó là những cánh cửa qua đó sự nhận thức về mọi sự kiện của thế giới khả giác đi vào thế giới bên trong. Những vật thể to lớn, tỏa sáng và những vật thể đầy sắc màu đi vào con người qua thị giác; những vật cứng rắn và ở trên mặt đất đi vào con người qua xúc giác; còn những vật ở giữa hai trạng thái trên thì đi vào con người qua các giác quan trung gian, ví dụ như chất lỏng qua vị giác, âm thanh qua thính giác, và làn hơi thì qua khứu giác. Hơi bốc lên thì gồm các yếu tố lẫn lộn như nước, khí, lửa hay nhiệt, như ta thấy rõ trong mùi vị thơm của trầm hương.

Bởi đó, chính qua các cánh cửa giác quan này những vật đơn thuần và phức tạp đi vào trong linh hồn. Thật vậy, chúng ta nhận thức không chỉ các đối tượng khả giác riêng biệt như ánh sáng, âm thanh, mùi, vị và bốn phẩm tính đầu tiên mà xúc giác nắm bắt được, nhưng còn cả các đối tượng phổ quát như số lượng, chiều kích, hình dáng, tình trạng yên tĩnh và sự chuyển động. Chúng ta biết một đàng “bất cứ cái gì chuyển động là do cái khác thúc đẩy”; đàng khác lại có những loài tự mình di chuyển và tự mình nghỉ ngơi, ví dụ các động vật. Từ đó, nếu chúng ta hiểu được sự chuyển động của các vật thể nhờ năm giác quan này, thì chúng ta cũng sẽ hiểu được những động lực tinh thần: cũng như hậu quả đưa tới sự hiểu biết về nguyên nhân.

4.  Do đó, toàn bộ thế giới khả giác với ba loại vật thể đi vào nội tâm chúng ta qua sự tiếp nhận của các giác quan. Các vật thể khả giác ở ngoại giới là những vật đầu tiên đi vào chúng ta qua cánh cửa của năm giác quan. Không phải bản chất của những vật đó đi vào trong chúng ta, nhưng đúng hơn là hình ảnh tương tự của chúng. Hình ảnh tương tự này được sản sinh trong một môi trường trung gian. Và từ môi trường trung gian này, hình ảnh đi vào giác quan bên ngoài: từ giác quan bên ngoài nó di chuyển vào trong giác quan bên trong, và từ đây được đưa tới chức năng nhận thức. Như thế, sự phát sinh hình ảnh tương tự trong môi trường trung gian, và sự chuyển động của nó từ môi trường trung gian đến các giác quan và phản ứng của chức năng nhận thức tạo nên quá trình hiểu biết của tâm linh chúng ta về thế giới bên ngoài.

5. Sự tiếp nhận một đối tượng thích hợp tạo nên khoái cảm. Giác quan cảm thấy thích thú nơi một đối tượng được tiếp nhận nhờ hình ảnh tương tự được rút ra từ đối tượng đó. Sự thích thú này đến từ vẻ đẹp của nó, như trong trường hợp thị giác, hay từ sự êm dịu, như trong trường hợp khứu giác và thính giác, hay từ tính chất ngọt ngào như trong trường hợp vị giác và xúc giác: đó là nói theo sự tương hợp của chúng. Bởi vì mọi khoái cảm xuất phát từ sự tương hợp. Mọi loài khả giác đều hàm chứa ba tương quan liên hệ đến hình thù, tiềm năng và hành động, tùy theo chúng được xem xét theo nguyên lý tạo thành ra nó, hay theo môi giới nó đi qua, hay theo cùng đích nó đang hướng tới. Do đó, tỷ lệ tương hợp được nhìn thấy trong hình ảnh tương tự theo tương quan hình thái hay là mô thức, được gọi là vẻ đẹp: bởi vì “vẻ đẹp không gì khác hơn là tỷ lệ cân bằng giữa các con số,” hay là “một sự sắp xếp hài hoà các phần tử với nhau cùng với các màu sắc êm dịu.”  Tỷ lệ tương hợp có thể được nhìn theo quan điểm tiềm năng hay sức mạnh; trong trường hợp này nó được gọi là sự êm dịu, khi tác động của đối tượng không vược quá mức độ của giác quan tiếp nhận; bởi vì giác quan đau đớn khi gặp những thái cực, nhưng lại vui thích trong sự chừng mực. Cuối cùng, sự tương hợp có thể được nhận thấy về phương diện hiệu năng và ấn tượng. Trong trường hợp này, sự tương hợp được tìm thấy khi sức ấn tượng của tác nhân thỏa mãn nhu cầu của giác quan tiếp nhận và như thế phù hợp với sức khoẻ và sự tồn tại của nó. Điều này được nhận thấy rõ ràng nhất nơi vị giác và xúc giác. Như thế chính qua khoái cảm mà các lạc thú bên ngoài đi vào tâm linh chúng ta bằng một sự tương đồng theo ba loại tỷ lệ.

6. Cảm thức và khoái lạc sẽ đưa đến sự phán đoán, qua đó ta phán đoán một sự vật không chỉ là trắng hay là đen –điều này tuỳ thuộc vào một giác quan riêng; tốt lành hay có hại – điều này tuỳ thuộc vào giác quan nội giới; nhưng khi phán đoán người ta giải thích tại sao lại có khoái cảm. Trong hành động này, người ta hỏi về nguyên nhân của sự khoái lạc mà các giác quan tiếp nhận được từ các sự vật.

Khi người ta hỏi tại sao lại có cái đẹp đẽ, cái êm dịu, hay cái ngọt ngào, người ta nhận ra đó là một tỷ lệ tương đồng. Tỷ lệ tương đồng ấy vẫn y nguyên trong những vật lớn cũng như trong những  vật nhỏ; nó không lớn hơn theo chiều kích hay bị thay đổi bởi sự chuyển động qua các giai đoạn, và cũng không bị suy tàn  cùng với những sự vật chóng qua.Nó độc lập với nơi chốn, thời gian và sự chuyển động, bởi thế nó bất biến, vô giới hạn và vô tận, tức là nó hoàn toàn thuộc về tinh thần. Như thế, phán đoán là hành vi nắm bắt lấy một cảm thức mà giác quan cung cấp, thanh lọc nó, trừu tượng nó và đưa nó tới chức năng của lý trí. Theo cách đó, toàn bộ thế giới khả giác đi vào trong tâm linh con người ngang qua cánh cửa các giác quan theo ba hoạt động như được trình bày ở trên.

7. Vậy, những hành động này là những dấu tích nơi đó ta có thể nhận diện được Thiên Chúa.Thực vậy hình thái các sự vật mà chúng ta cảm nhận được là hình ảnh tương tự được tạo nên trong môi trường trung gian và được in vào trong giác quan; dấu in đó đưa ta tới nguyên lý của nó, tức là sự hiểu biết về đối tượng. Điều này gợi ý rõ ràng là ánh sáng vĩnh cửu làm phát sinh một hình ảnh tương tự của chính nó, một vầng sáng vốn đồng hàng, đồng bản tính, và đồng vĩnh hằng với nó. Điều này cho thấy: Đấng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là vẻ huy hoàng của vinh quang Người và dấu ấn của bản thể Người (x. Cl 1,15 và Dt 1,3), hiện hữu khắp mọi nơi, bởi vì Người là Đấng đầu tiên được sinh ra; điều này cũng tương tự như một sự vật làm phát sinh ra hình ảnh của nó trong môi trường trung gian. Điều này còn gợi ý là Đấng ấy kết hợp với một cá nhân thuộc loài có lý trí bằng ân sủng hiệp nhất, giống như hình thái được kết hợp với cơ quan thể lý, để rồi nhờ sự hiệp nhất này Ngài dẫn đưa chúng ta về với Chúa Cha là nguyên lý và là nguồn cội của chúng ta. Do đó, nếu tất cả mọi vật khả tri đều có khả năng làm phát sinh một hình ảnh tương tự như chúng, thì đó là một dấu chỉ rõ ràng cho thấy là chúng ta có thể nhìn ngắm nơi chúng như trong một tấm gương sự sinh ra vĩnh cửu của Ngôi Lời: Người là Hình Ảnh và là Người Con đời đời phát xuất từ Chúa Cha.

8. Cũng thế, hình ảnh tương tự vốn đem lại sự hoan lạc do vẻ đẹp, sự ngọt ngào và tốt lành của nó cho thấy rằng Hình ảnh tiên khởi có một vẻ đẹp, một sự ngọt ngào, và tốt lành tiên khởi. Nó hoàn toàn cân xứng và tương đồng với Đấng sinh ra nó. Sức mạnh của nó không phải là ảo tưởng, nhưng tạo tác động đích thực.  Dấu ấn của nó bổ sức và làm thỏa mãn mọi nhu cầu của người tiếp nhận nó. Do đó, nếu “hoan lạc phát xuất từ sự kết hợp giữa hai đối tượng tương hợp với nhau,” và nếu chỉ hình ảnh của Thiên Chúa là nguyên lý tối hậu của vẻ đẹp, của sự ngọt ngào và tốt lành; và nếu hình ảnh đó được thông truyền cách chân thật, thân thiết, và chan chứa,vượt quá mọi nhu cầu của chúng ta, thì rõ ràng chỉ một mình Thiên Chúa là suối nguồn hoan lạc đích thật và  tất cả mọi thứ hoan lạc khác thúc đẩy chúng ta đi tìm niềm hoan lạc này.

9. Tuy nhiên hành vi phán đoán, theo một phương cách tuyệt vời hơn và trực tiếp hơn, giúp chúng ta nhận ra chân lý vĩnh cửu với một sự chắc chắn lớn lao hơn. Sự phán đoán được thực hiện, khi lý trí trừu tượng hóa nơi chốn, thời gian và sự thay đổi, nghĩa là nó không lệ thuộc vào các chiều kích, sự liên tục và sự thay đổi: như vậy lý trí có cái gì bất biến, vo giới hạn và vô cùng tận. Nhưng không có gì là tuyệt đối bất biến, vô hạn, và vô cùng ngoại trừ điều ấy là vĩnh cửu. Và bất cứ điều gì vĩnh cửu là chính Thiên Chúa hoặc ở trong Thiên Chúa. Do đó, nếu mọi phán đoán chắc chắn của chúng ta được hình thành bởi một thực tại như thế, thì rõ ràng chính Thực Tại này là nguyên nhân của  mọi sự, là qui luật bất khả ngộ, là ánh sáng chân lý trong đó mọi sự rực sáng một  cách bất khả ngộ, bất diệt, bất khả nghi, không thể phủ nhận , không thể phi bác, bất biến, bất tận, bất khả phân chia và thuộc phạm vi tinh thần.

Vì thế, những qui luật theo đó chúng ta phán đoán cách chắc chắn các đối tượng khả giác hiện diện trong lý trí chúng ta, thì không thể sai lầm, lý trí tiếp nhận không thể nghi ngờ, và trí nhớ khắc ghi không thể xoá bỏ, bởi vì chúng đã  hiện diện đó một cách vững vàng; và bởi vì đối với lý trí phán đoán, các quy luật ấy là vững vàng và bất khả phi bác, như thánh Âu-tinh đã nói: “Không ai xét đoán chúng, nhưng dùng chúng để xét đoán”, nên các qui luật này là bất biến và bất diệt, bởi vì chúng là tất yếu. Chúng không thể bị gò bó trong không gian bởi vì chúng vô giới hạn; chúng vô tận trong thời gian bởi vì chúng vĩnh cửu; chúng không thể bị phân chia, bởi vì chúng thuộc lãnh vực trí tuệ, phi vật chất; chúng không được ai làm ra, nhưng tự có, tồn tại đời đời trong Nghệ Thuật thần linh: đây là nguồn gốc, nguyên nhân và mẫu mực của mọi sự đẹp đẽ. Bởi thế, các phán đoán của chúng ta chỉ đạt tới sự chắc chắn nhờ Nghệ Thuật vĩnh hằng ấy: đó là khuôn mẫu không chỉ làm phát sinh mọi loài, nhưng còn bảo tồn và phân loại chúng; đó chính là Hữu thể vốn bảo trì mọi thụ tạo trong hình thái riêng biệt của chúng và là quy luật hướng dẫn mọi phán đoán của chúng ta về các sự vật xuất hiện trong tâm trí qua cánh cửa các giác quan.

11. Hai bước đầu tiên này đã đưa chúng ta tới nhìn ngắm Thiên Chúa trong các dấu tích của Người. Chúng tương tự như đôi cánh phủ chân của thiên thần Seraphim.Từ đó chúng ta có thể kết luận rằng mọi thụ tạo trong thế giới khả giác đều hướng dẫn tâm hồn của con người chiêm niệm và khôn ngoan lên tới Thiên Chúa vĩnh hằng. Thực vậy các thụ tạo là bóng dọi, âm vang và hình ảnh của Nguyên lý tiên khởi, rất mực quyền năng, khôn ngoan và tốt lành; chúng phản ánh nguồn mạch, ánh sáng và sự sung mãn vĩnh hằng của Nguyên-nhân tác tạo, mô phạm và cùng đích của chúng. Chúng là các dấu tích, các biểu tượng, các bức tranh được Thiên Chúa ban cho chúng ta như những dấu chỉ đường để chúng ta chiêm ngắm Người. Chúng là những bản sao hay đúng hơn những bức minh họa vừa tầm với chúng ta là những người còn thô thiển và còn đắm chìm trong nhục-cảm, để đưa chúng ta đi từ thế giới khả giác mà chúng ta trông thấy, đến thế giới tâm linh mà chúng ta không thấy, kiểu như từ các dấu chỉ tới những thực tại được chỉ.

12. Các thọ tạo của thế giới khả giác diễn tả phần nào những điều vô hình nơi Thiên Chúa (Rm 1,20), vì Thiên Chúa là nguồn gốc, nguyên mẫu và cùng đích của chúng: hậu quả là dấu chỉ của nguyên nhân; bản sao là dấu chỉ của khuôn mẫu; con đường là dấu chỉ của cùng đích mà nó dẫn tới. Các thụ tạo là dấu chỉ do thực tại tự nhiên của chúng, do sự tiên báo của các ngôn sứ, do tác động của các thiên thần, và sau hết do sự thiết lập được Thiên Chúa thêm vào. Thực vậy, theo bản tính của chúng, các thụ tạo là hình ảnh và là bản sao của Sự Khôn ngoan vĩnh hằng; đặc biệt là những thụ tạo mà Kinh thánh, được  thúc đẩy bởi Thần khí ngôn sứ , mặc cho một ý nghĩa thiêng liêng; đặc biệt hơn nữa là các thụ tạo mà Thiên Chúa đã mượn lấy hình hài để tỏ mình ra qua sứ vụ của các thiên thần; và theo phương cách đặc biệt nhất, đó là những thụ tạo mà Thiên Chúa đã thiết lập làm các  dấu chỉ, không phải theo nghĩa thông thường mà thôi, mà còn theo nghĩa là các Bí tích.

13. Từ tất cả những điều được nói trên chúng ta có thể kết luận rằng từ thuở tạo thiên lập địa, những điều vô hình nơi Thiên Chúa được biểu lộ ra qua các công trình của Người. Như vậy những ai không muốn chú tâm vào các công trình ấy và từ chối nhận biết, chúc tụng và yêu mến Thiên Chúa trong tất cả mọi loài, thì sẽ không chạy tội được (Rm 1,20). Họ đã không muốn bước ra khỏi bóng tối để đi tới ánh sáng diệu huyền của Thiên Chúa. Phần chúng ta, chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã kéo chúng ta ra khỏi bóng tối và đưa vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền của Người (1Cr 15,57; 1Pr 2,9): vì nhờ những luồng ánh sáng đến từ bên ngoài, chúng ta được đưa dẫn tới tấm gương của tâm hồn, trong đó các thực tại thần linh ngời sáng.

👉 (đọc tiếp các chương tiếp theo tại đây)

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.