CHIÊM NGẮM THIÊN CHÚA QUA HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI ĐƯỢC KHẮC GHI TRONG CÁC CHỨC NĂNG TỰ NHIÊN CỦA CHÚNG TA
THÁNH BONAVENTURE & ITINERARIUM MENTIS IN DEUM
(LỘ TRÌNH TÂM LINH)
Biên Soạn: Joseph Tân Nguyễn ofm
BỐI CẢNH SÁNG TÁC “ITINERARIUM MENTIS IN DEUM”
TÁC PHẨM “ITINERARIUM MENTIS IN DEUM”
LỜI NGỎ CỦA THÁNH BONAVENTURA
CHƯƠNG MỘT:
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LÊN CÙNG THIÊN CHÚA VÀ SUY GẪM VỀ NGƯỜI QUA CÁC DẤU TÍCH CỦA NGƯỜI TRONG VŨ TRỤ
CHƯƠNG HAI:
SUY GẪM VỀ THIÊN CHÚA NƠI NHỮNG DẤU TÍCH CỦA NGƯỜI TRONG THẾ GIỚI KHẢ GIÁC NÀY
CHƯƠNG BA:
CHIÊM NGẮM THIÊN CHÚA QUA HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI ĐƯỢC KHẮC GHI TRONG CÁC CHỨC NĂNG TỰ NHIÊN CỦA CHÚNG TA
CHƯƠNG BỐN:
CHIÊM NGẮM THIÊN CHÚA NƠI HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI ĐƯỢC TÁI TẠO NHỜ ÂN SỦNG
CHƯƠNG NĂM:
CHIÊM NGẮM TÍNH DUY NHẤT QUA TÊN GỌI HỮU THỂ
CHƯƠNG SÁU:
CHIÊM NGẮM BA NGÔI NƠI DANH HIỆU THIỆN HẢO
CHƯƠNG BẢY:
CUỘC ĐI LÊN HUYỀN NHIỆM CỦA TÂM HỒN, LÝ TRÍ ĐƯỢC AN NGHỈ; LÒNG CẢM MẾN HOÀN TOÀN TIẾN VÀO THIÊN CHÚA
TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU THÊM
CHƯƠNG BA
CHIÊM NGẮM THIÊN CHÚA QUA HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI ĐƯỢC KHẮC GHI TRONG CÁC CHỨC NĂNG TỰ NHIÊN CỦA CHÚNG TA
Linh hồn chúng ta là tấm gương phản ánh Thiên Chúa qua ba chức năng: trí nhớ, trí hiểu và tình yêu.
1. Hai bước trước đây đã đưa chúng ta đến với Thiên Chúa bằng những dấu tích phản ánh vinh quang của Thiên Chúa nơi các thụ tạo. Các bước ấy đã dẫn chúng ta tới ngưỡng cửa con người chúng ta, tức là tới phần linh hồn, nơi hình ảnh Thiên Chúa tỏa sáng. Bởi thế tới bậc cấp thứ ba này, chúng ta rời khu vực tiền đình để đi vào trong “cung thánh", nghĩa là trong khu vực trước nhà tạm. Chúng ta phải cố gắng nhận diện Thiên Chúa qua tấm gương của linh hồn. Nơi đây ánh sáng chân lý chiếu giải như là ánh sáng của trụ đèn vàng trên khuôn mặt của trí tuệ nơi đó toả rạng hình ảnh của Ba Ngôi chí thánh. Vậy bạn hãy đi vào trong bản thân mình: hãy xem linh hồn bạn yêu mến chính mình cách tha thiết chừng nào. Nhưng nó không thể tự yêu mình, nếu nó không biết mình. Và nó sẽ không thể biết mình, nếu không nhớ đến mình, vì lý trí chỉ hiểu được những gì hiện diện trong trí nhớ. Từ đó, bạn sẽ nhận thấy, không phải với con mắt thể lý nhưng với con mắt lý trí, là linh hồn sở hữu ba khả năng. Vậy bạn hãy xem xét các hoạt động và những liên hệ giữa ba khả năng ấy. Lúc ấy bạn có thể nhận diện Thiên Chúa qua chính bạn như qua hình ảnh của Người, nghĩa là nhìn thấy Người “qua tấm gương, một cách lờ mờ” (1Cr 13,12).
Hoạt động của trí nhớ.
2. Vai trò của trí nhớ là để lưu giữ và tái diễn không chỉ những sự vật đang hiện diện, có thể xác và tạm thời, nhưng còn là những sự vật liên tục, giản đơn và vĩnh cửu. Trí nhớ nắm giữ quá khứ bằng việc nhớ lại, hiện tại bằng sự chú ý và tương lai bằng việc tiên liệu. Nó lưu giữ những dữ kiện đơn thuần như nguyên tắc về các số lượng liên tục hoặc tách biệt, ví dụ như điểm, thời khắc và đơn vị: không có chúng thì ta không thể nhớ lại hay hiểu biết những điều được xuất phát từ chúng. Nó cũng lưu giữ mái mãi các nguyên tắc hiển nhiên và bền vững của khoa học: bao lauu ta còn sử dụng lý trí là ta không thể quên lãng chúng. Vì thế, ngay khi ta nghe tới chúng, ta đã chấp nhận và tán thành, không phải như thể ta mới nghe lần đầu, nhưng như những thực tại bẩm sinh và quen thuộc. Điều này thật hiển nhiên, khi ta nghe ai đó nêu ra nguyên tắc sau đây: “Về bất kỳ điều gì, ta cũng có thể nói là nó đúng hoặc nó sai”, hay “Tổng thể thì lớn hơn thành phần”, hay bất kỳ nguyên tắc nào khác mà nếu phủ nhận thì ta sẽ mâu thuẩn với lý trí của chúng ta.
Theo chức năng đầu tiên, khi lưu giữ tất cả mọi sự trong thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai, thì trí nhớ mang hình ảnh của vĩnh cửu: vĩnh cửu thì có tính hiện tại bất khả phân chia và kéo dài mãi mãi qua mọi thời gian.
Theo chức năng thứ hai, thì ký ức được hình thành không chỉ bởi các ảo ảnh đến từ các đối tượng bên ngoài, nhưng còn bởi việc đón nhận từ bên trên các ý niệm đơn thuần: các ý niệm này không thể đi vào trong ta qua cửa của các giác quan hay bằng các ảo ảnh khả giác.
Theo chức năng thứ ba của nó, trí nhớ có sự hiện diện của một thứ ánh sáng bất biến nhờ đó nó hồi tưởng lại những chân lý bất biến.
Như vậy ba loại hoạt động của trí nhớ cho thấy rõ ràng linh hồn là hình ảnh của Thiên Chúa. Sự tương đồng thật lớn lao và biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa: qua cách hoạt động linh hồn có thể gặp Người và qua tiềm năng linh hồn “có thể tiếp đón Người và tham dự vào đời sống của Người.”
Hoạt động của lý trí.
3. Chức năng của lý trí là am hiểu các từ, các mệnh đề và các kết luận. Lý trí am hiểu được ý nghĩa của một từ khi nó hiểu được sự vật đó là gì nhờ một định nghĩa. Nhưng bất cứ định nghĩa nào cũng được hình thành bởi những từ rộng nghĩa hơn, rồi những từ này lại được định nghĩa bằng những từ rộng rãi hơn nữa, và cứ như thế cho đến khi chúng ta đạt tới những từ phổ quát nhất. Nếu chúng ta không biết những từ phổ quát này, thì không thể hiểu được những từ khác kém phổ quát hơn. Bởi đó, nếu chúng ta không biết ý nghĩa của hữu thể tự tại thì cũng không thể hiểu đầy đủ được định nghĩa của bất cứ điều gì đăc biệt. Nhưng chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa của hữu thể tự tại, nếu không biết được những thuộc tính của nó, đó là: duy nhất, chân thật và tốt lành.
Nhưng hữu thể lại có thể được quan niệm như bị giảm thiểu hoặc đầy đủ, bất toàn hay vẹn toàn, trong tiềm năng hay trong hoạt động, dưới một khía cạnh nào đó hoặc đơn thuần, từng phần hay toàn phần, tạm thời hay vĩnh cửu, lệ thuộc hay độc lập, pha trộn hay như thuần túy, tương đối hay tuyệt đối, hậu nghiệm hay tiên nghiệm, hay thay đổi hay bất biến, đơn giản hay kết hợp. Nhưng “người ta chỉ biết được trạng bất hoàn hảo, khi đã biết được trạng thái hoàn hảo”. Do đó lý trí chúng ta không thể hiểu đầy đủ được về bất cứ một thụ tạo nào, nếu trước đó nó không được hưởng một tri thức về Hữu thể tinh tuyền nhất, thực hữu nhất, hoàn hảo nhất và tuyệt đối, đơn giản và vĩnh viễn: đó là hữu thể bao hàm trong trạng thái tinh ròng của nó căn nguyên của tất cả các thụ tạo. Thực vậy làm sao lý trí chúng ta có thể nhận biết một cái gì đó là khiếm khuyết hay bất toàn, nếu không có chút tri thức nào về hữu thể hoàn hảo? Chúng ta có thể lý luận tương tự như thế về các phẩm tính khác của hữu thể được đề cập trên đây.
Tiếp đến, lý trí tuệ thực sự am hiểu được các mệnh đe, khi nó nhận biết một cách chắc chắn chúng đúng như vậy. Biết được như thế mới thực sự là biết, bởi vì lý trí không thể sai lầm trong sự hiểu biết đó. Thực vậy lý trí biết rằng sự thật không thể khác được, và nó cũng biết rằng sự thật thì bất biến. Nhưng chính lý trí chúng ta lại hay thay đổi, nên nó không thể thấy được chân lý chiếu sáng một các bất biến đó, nếu không có một thứ ánh sáng hoàn toàn bất biến chiếu soi nó. Một luồng ánh sáng như thế không thể là một thụ tạo hay biến đổi. Như vậy lý trí đạt tới mọi hiểu biết nhờ thứ ánh sáng vốn soi chiếu tất cả mọi người đến trong thế giới này: đó là ánh sáng chân thật, ánh sáng của Ngôi Lời, Đấng từ nguyên thủy đã ở với Thiên Chúa (Ga 1,1.9).
Lý trí chúng ta hiểu được một kết luận là đúng, khi nó nhận thấy hậu quả phát xuất từ tiền đề một cách chắc chắn. Nó nhận ra điều này không chỉ nơi những sự thật tất yếu mà còn nơi cả những sự thật bất tất nữa. Ví dụ: “Nếu một người đang chạy, thì người đó đang chuyển động.” Tương quan tất yếu này không chỉ xuất hiện nơi những vật hiện hữu, mà ngay cả nơi những vật không hiện hữu. Đối với người đang hiện hữu thì rõ ràng là “Nếu một người đang chạy thì người đó đang di chuyển.” Nhưng kết luận này vẫn đúng ngay cả khi người đó không có trong thực chất.
Như vậy tính tất yếu của một kết luận không đến từ sự hiện hữu của sự vật trong thế giới vật chất, vì sự vật đó không nhất thiết phải có. Nó cũng không đến từ sự hiện hữu của nó trong lý trí: đó sẽ là điều tưởng tượng nếu sự vật không có trong thực chất. Nhưng nó phát xuất từ Nguyên-mẫu của Nghệ Thuật thần linh, theo đó các sự vật mang những đặc tính và có liên hệ với nhau tuỳ theo cách biểu diễn của Đức Khôn ngoan vĩnh cửu. Thánh Âu-tinh nói trong cuốn sách “Về Tôn Giáo Chân Thật” của ngài: “Ánh sáng của bất cứ ai sử dụng lý trí một cách nghiêm túc, được thắp sáng bởi chân lý vĩnh cửu và tìm cách trở về với chân lý ấy”.
Những suy nghĩ trên cho thấy rõ ràng là lý trí chúng ta được liên kết với chân lý vĩnh cửu. Nếu chân lý ấy đã không dạy dỗ lý trí chúng ta, thì lý trí ấy không thể hiểu được điều gì chắc chắn. Vậy bạn có thể tự mình nhận ra chân lý ấy vốn đang dạy dỗ bạn, miễn là các dục vọng và các hình ảnh xúc cảm không ngăn cản bạn như đám mây mù chắn ngang giữa bạn và tia sáng chân lý.
Hoạt động của ý chí.
4. Chức năng chọn lựa gồm sự cân nhắc, phán đoán, và ao ước. Cân nhắc là tìm hiểu xem điều này có tốt hơn điều kia không. Nhưng một điều được xem là tốt hơn, khi nó đứng gần hơn với cái tốt nhất. Nhưng sự gần gủi với cái tốt nhất được đo lường bằng sự tương đồng. Bởi thế, không ai có thể biết điều này tốt hơn điều kia, nếu không biết điều này có nhiều tương đồng hơn điều kia với điều tốt nhất. Và không ai biết điều này giống với điều khác, khi không biết điều khác kia là gì ; cũng như tôi không thể nói người này giống với ông Phê-rô, nếu không biết ông Phê-rô là ai và nhận ra được mặt ông Phê-rô. Do đó, người làm công việc cân nhắc, nhất thiết đã phải có trong đầu một ý niệm về sự tốt lành tối thượng.
Việc phán đoán chắc chắn về những đối tượng của sự cân nhắc, xảy ra theo đúng quy luật. Nhưng không ai có thể phán đoán một cách chắc chắn căn cứ theo một quy luật mà lại không đinh ninh rằng quy luật đó là đúng và không cần đặt phải đặt vấn đề lại. Chính lý trí chúng ta phán đoán về chính mình, chứ không bao giờ phê phán về quy luật mà nó dùng để đánh giá: như vậy quy luật này siêu vượt lý trí của chúng ta. Và nếu lý trí chúng ta có khả năng sử dụng quy luật này để phán đoán, thì điều này có nghĩa là quy luật ấy đã được khắc ghi vào trong lý trí chúng ta. Nhưng không có gì cao cả hơn lý trí con người ngoại trừ Đấng đã tạo nên nó. Do đó, trong hành vi phán đoán, chức năng chọn lựa của chúng ta tiếp xúc với những quy luật của Thiên Chúa, nếu chúng ta phân tích đầy đủ hành vi ấy.
Lòng ao ước hướng tới đối tượng thu hút nó mạnh nhất. Và điều lôi cuốn nó mạnh nhất là điều nó yêu mến nhất. Điều nó yêu mến nhất chính là hạnh phúc. Nhưng không thể có hạnh phúc ngoài sự thiện hoàn hảo và tối hậu của cuộc đời. Vì thế không có gì thôi thúc lòng ao ước của con người cho bằng sự thiện toàn hảo và những gì dẫn tới đó hoặc phản ánh sự thiện ấy một cách nào đó. Quyền lực của sự thiện hoàn hảo mãnh liệt đến nỗi các thụ tạo không khao khát gì hơn là chính sự thiện ấy, cho dẫu khi chúng lầm lạc và xem hình ảnh hay biểu tượng là thực tế.
Vì thế, bạn hãy chú ý xem linh hồn gần gũi Thiên Chúa biết bao khi các khả năng hoạt động theo chức năng của chúng: trí nhớ phản ánh cõi vĩnh hằng, lý trí phản ánh chân lý, và khả năng chọn lựa phản ánh Sự Thiện tuyệt hảo.
Ba chức năng của tâm hồn là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa.
5. Nếu chúng ta quan sát trật tự, nguồn gốc, và mối liên hệ giữa các chức năng nói trên với nhau, chúng ta sẽ được dẫn tới chính Ba Ngôi cực thánh. Trí nhớ làm phát sinh trí hiểu như sinh ra một đứa con; bởi vì chúng ta chỉ hiểu biết, khi một hình ảnh được trí nhớ lưu lại xuất hiện trên bề mặt của ý thức: đó là lời. Trí nhớ và lý trí thổi ra tình yêu là sợi dây liên kết hai chức năng kia. Như vậy tư tưởng làm phát sinh, lời và tình yêu hoạt động trong tâm hồn chúng ta cũng như trí nhớ, lý trí và ý chí. Chúng đồng bản thể, đồng hàng, đồng thời gian và thâm nhập vào nhau.
Do đó, nếu Thiên Chúa là thần linh hoàn hảo, thì Người có trí nhớ, lý trí và ý chí: nơi Người cũng có Lời được sinh ra và Tình Yêu được thổi ra: các thực tại này nhất thiết khác biệt nhau, bởi vì thực tại này phát xuất từ thực tại khác. Sự khác biệt không nằm trên bình diện bản thể hay tuỳ thể, nhưng trên bình diện ngôi vị.
Như vậy, khi linh hồn tự quan sát mình, nó vươn lên từ bản thân mình như từ một tấm gương, tới chỗ được chiêm ngắm Ba Ngôi chí thánh: Chúa Cha, Ngôi Lời và Tình Yêu, Ba Ngôi đồng vĩnh hằng, đồng hàng và đồng bản tính, đến nỗi mỗi ngôi vị ở trong hai ngôi vị kia, và ngôi này thì không phải là ngôi kia, nhưng Ba Ngôi cũng chỉ là một Thiên Chúa.
👉 (đọc tiếp các chương tiếp theo tại đây)