Skip to content
Main Banner
Thánh Têrêsa Hài Đồng (01/10)
Ngôn ngữ

NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LÊN CÙNG THIÊN CHÚA VÀ SUY GẪM VỀ NGƯỜI QUA CÁC DẤU TÍCH CỦA NGƯỜI TRONG VŨ TRỤ

BTT OFMVN 01
2025-10-20 08:18 UTC+7 14

THÁNH BONAVENTURE & ITINERARIUM MENTIS IN DEUM

(LỘ TRÌNH TÂM LINH)

Biên Soạn: Joseph Tân Nguyễn ofm


BỐI CẢNH SÁNG TÁC “ITINERARIUM MENTIS IN DEUM”

TÁC PHẨM “ITINERARIUM MENTIS IN DEUM”

  • LỜI NGỎ CỦA THÁNH BONAVENTURA

  • CHƯƠNG MỘT:

    NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LÊN CÙNG THIÊN CHÚA VÀ SUY GẪM VỀ NGƯỜI QUA CÁC DẤU TÍCH CỦA NGƯỜI TRONG VŨ TRỤ

  • CHƯƠNG HAI

    SUY GẪM VỀ THIÊN CHÚA NƠI NHỮNG DẤU TÍCH CỦA NGƯỜI TRONG THẾ GIỚI KHẢ GIÁC NÀY

  • CHƯƠNG BA:

    CHIÊM NGẮM THIÊN CHÚA QUA HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI ĐƯỢC KHẮC GHI TRONG CÁC CHỨC NĂNG TỰ NHIÊN CỦA CHÚNG TA

  • CHƯƠNG BỐN:

    CHIÊM NGẮM THIÊN CHÚA NƠI HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI ĐƯỢC TÁI TẠO NHỜ ÂN SỦNG

  • CHƯƠNG NĂM:

    CHIÊM NGẮM TÍNH DUY NHẤT QUA TÊN GỌI HỮU THỂ

  • CHƯƠNG SÁU:

    CHIÊM NGẮM BA NGÔI NƠI DANH HIỆU THIỆN HẢO

  • CHƯƠNG BẢY:

    CUỘC ĐI LÊN HUYỀN NHIỆM CỦA TÂM HỒN, LÝ TRÍ ĐƯỢC AN NGHỈ; LÒNG CẢM MẾN HOÀN TOÀN TIẾN VÀO THIÊN CHÚA

TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU THÊM


CHƯƠNG MỘT
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LÊN CÙNG THIÊN CHÚA VÀ SUY GẪM VỀ NGƯỜI QUA CÁC DẤU TÍCH CỦA NGƯỜI TRONG VŨ TRỤ

1. Phúc thay kẻ lấy Người làm sức mạnh, ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương. Lúc trẩy qua thung lũng Khô Cằn, họ biến nó thành nguồn suối nước, mưa đầu mùa đổ phúc lộc chứa chan (Tv 84,6 tt).  Bởi hạnh phúc không là gì khác nhưng chính là sự trọn hảo, và vì sự trọn hảo ở trên chúng ta, nên chúng ta không thể tìm thấy hạnh phúc nếu không vươn ra khỏi chính mình.  Đây không phải là sự vươn lên của thân xác nhưng là của tâm hồn.  Thế mà chúng ta chỉ có thể được nâng lên nhờ một sức mạnh siêu việt.  Cho dù chúng ta có sắp đặt đời sống nội tâm theo một trật tự hoàn hảo thế nào đi nữa, thì vẫn chẳng có gì xảy đến nếu sự trợ giúp của Thiên Chúa không đồng hành với chúng ta.  Mà sự trợ giúp của Thiên Chúa chỉ đến với những ai khiêm nhường và thành tâm cầu nguyện.  Chúng ta phải than thở hết lòng van xin trong lũng đầy nước mắt.  Vì thế cầu nguyện là người mẹ và là nguồn mạch phát xuất động tác đi lên của tâm hồn hướng thượng.  Chính vì thế mà Dionysius dâng lời cầu nguyện ở đầu cuốn sách Thần học Huyền Nhiệm mong hướng dẫn chúng ta về vấn đề xuất thần. Vậy chúng ta hãy cầu nguyện và thưa với Thiên Chúa, Chúa chúng ta rằng: Xin dạy con đường lối Ngài, lạy Chúa, để con vững bước theo chân lý của Ngài.  Xin Chúa hướng lòng con, để con biết một niềm kính tôn Danh Thánh (Tv 86,11)

2. Khi cầu nguyện như vậy Thiên Chúa ban cho chúng ta ánh sáng để chúng ta nhận ra những bước đi vươn lên tới Người.  Chính trong sự hài hòa với hiện trạng được tạo dựng của chúng ta mà thiên nhiên có thể trở nên như chiếc thang nhờ đó chúng ta đi lên tới Thiên Chúa.  Trong các thụ tạo, một số là dấu tích và một số là hình ảnh; một số là thể xác và một số là linh hồn; một số thì tạm thời và một số thì vĩnh viễn; một số bên ngoài và một số bên trong chúng ta.  Để đạt đến được nguyên lý tiên khởi vốn thiêng liêng nhất, vĩnh cữu nhất và ở trên chúng ta, chúng ta cần phải đi qua các dấu tích vốn là thể chất, tạm thời và bên ngoài chúng ta.  Từ đó chúng ta sẽ được dẫn vào đường lối của Thiên Chúa.  Kế đó, chúng ta phải tiến vào trong thực tại nội tâm của chúng ta, tức là hình ảnh Thiên Chúa, một hình ảnh vĩnh cữu, thiêng liêng và bên trong chúng ta.  Và hình ảnh này sẽ giúp chúng ta tiến vào chân lý của Thiên Chúa.  Sau cùng, chúng ta phải tiến lên cùng cái vĩnh cữu nhất, thiêng liêng nhất, và ở trên chúng ta bằng cách nâng con mắt của chúng ta lên tới Nguyên lý Tiên khởi.  Việc này sẽ đưa chúng ta đến niềm hoan lạc được biết Thiên Chúa và kính sợ sự cao cả của Người.

3. Vì vậy đây là một cuộc hành trình ba ngày đường trong cảnh hoang vắng của sa mạc (Xh 3,18); đây là ba mức độ ánh sáng của cùng một ngày: mức thứ nhất như là chiều tà, mức thứ hai như là buổi sáng, và mức thứ ba như là buổi trưa.  Đây là ba cấp hiện hữu của các sự vật: hiện hữu trong vật chất, hiện hữu trong tri thức và hiện hữu trong nghệ thuật vĩnh cữu, như đã được ghi: Hãy có, Thiên Chúa làm ra, và được làm ra (St 1,3).  Đây cũng là ba phần hữu thể trong Đức Kitô là chiếc thang cho chúng ta: thân xác, tâm hồn, và thần linh.

4. Hợp với sự tiến triển bộ ba, chúng ta có ba phương cách chính để nhìn các sự vật.  Cách thứ nhất liên hệ tới các vật thể bên ngoài chúng ta, nghĩa là khả năng sinh vật hay là giác quan.  Cách thứ hai liên quan tới nội tâm hay bên trong con người, được gọi là tâm hồn.  Trong cách thứ ba, con người được lôi cuốn đến cái ở trên mình, tức là linh hồn.  Trong cuộc hành trình lên cùng Chúa, chúng ta phải vận dụng cả ba cách nhìn này để có thể yêu mean Thiên Chúa hết trí khôn, hết tâm lòng, hết linh hồn (Mc 12,30; Mt 22,37; Lc 10,27).  Như vậy chúng ta được hoàn toàn trung tín đối với Lề Luật đồng thời với sự khôn ngoan Kitô giáo.

5. Mỗi một lối nhìn trên đây có thể được nhân đôi tùy theo cách chúng ta xem Thiên Chúa như là Đầu và Cuối (Alpha & Omega, Kh 1,8), hoặc trong mỗi cách nhìn trên đây ta có thể xem Thiên Chúa như qua tấm gương hay như trong tấm gương.  Hoặc chúng ta có thể xem mỗi lối nhìn trên đây trong tương quan với một lối nhìn khác, hay chỉ đơn giản qua sự thuần khiết của nó.  Vì vậy ba cấp độ đi lên này cần phải được nâng lên thành sáu.  Cũng như Thiên Chúa hoàn thành toàn thể thế giới trong sáu ngày và nghỉ ngơi ngày thứ bảy, thì thế giới vi mô (nhân loại) cũng phải được dẫn đưa tới cõi tĩnh lặng của chiêm niệm theo một trật tự hoàn hảo qua sáu cấp độ lĩnh hội.  Điều này được biểu tượng bởi sáu bậc cấp đưa người ta bước lên ngai vua Salomon (2 Sbn 10,18).  Tương tự như vậy, thiên thần Seraphim mà Isaia trông thấy có sáu cánh (Is 6,2); Đức Chúa gọi ông Môsê từ giữa đám mây sau sáu ngày (Xh 24,16); và Matthêu viết: sau sáu ngày Đức Kitô dẫn các môn đệ lên núi và Người biến hình trước mắt các ông (Mt 17,1 tt).

6. Tương ứng với sáu bước đi lên cùng Thiên Chúa là sáu cấp độ năng lực của linh hồn qua đó chúng ta tiến lên từ chiều sâu đến chiều cao, từ ngoài vào trong, từ tạm thời tới vĩnh cữu. Sáu cấp độ này là: giác quan, trí tưởng tượng, trí phán đoán, trí hiểu biết, trí thông suốt, và cao điểm là tâm hồn hay tia sáng của lương tâm.  Những năng lực này được ghi khắc cách tự nhiên trong chúng ta.  Chúng đã bị biến dạng vì tội lỗi và được khôi phục nhờ ân sủng.  Chúng phải được thanh tẩy bằng sự công chính, phát triển bằng tri thức và đạt tới hoàn hảo bằng khôn ngoan.

7. Theo phương cách thiên nhiên đã được thiết lập tự ban đầu, loài người được tạo dựng với khả năng cảm nghiệm được sự tĩnh lặng của chiêm niệm.  Vì thế, Thiên Chúa đã đặt con người đầu tiên vào trong vườn địa đàng đầy hoan lạc (St 2,15).  Nhưng khi quay lưng lại với ánh sáng chân thật để tìm kiếm một sự thiện hay thay đổi, con người đầu tiên đã bị khuất phục bởi tội lỗi cá nhân và toàn thể loài người bị tội nguyên tổ thống trị.  Tội này làm tổn hại nhân tính theo hai cách.   Nó làm cho tâm trí ra u mê và thân xác đầy dục vọng.  Hậu quả là loài người trở nên mù quáng và sa đoạ, ngồi trong chốn tối tăm và không thấy được ánh sáng từ trời, nếu không có được trợ giúp của ân sủng và công chính để chống lại dục vọng, cũng như tri thức và khôn ngoan để chống lại sự mê muội.  Mà điều này đến được với chúng ta nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng mà Thiên Chúa đã đặt làm sự khôn ngoan, công chính, thánh hóa và phúc cứu rỗi.  Vì Người là sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa (1 Cr 1,30), và là Ngôi Lời nhập thể của Thiên Chúa đầy tràn ân sủng và chân lý (Ga 1,14.17), nên chính Người là nguồn ân sủng và chân lý.  Người đổ vào lòng chúng ta ân sủng tình thong.  Vì ân sủng tình này phát xuất từ một tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình (1 Tm 1,5) nên nó điều chỉnh toàn bộ linh hồn chúng ta theo ba khả năng như được nói đến ở trên.  Người đã truyền dạy sự hiểu biết chân lý theo ba phương cách thần học: biểu tượng, sát ý nghĩa, và bí nhiệm.  Nhờ thần học biểu tượng chúng ta có thể sử dụng các sự vật khả giác một cách thích ứng; nhờ thần học theo đúng nghĩa chúng ta có thể xem xét điều khả tri một cách chính xác, và qua thần học bí nhiệm chúng ta có thể được nâng lên vào trạng thái xuất thần bên kia phạm vi tri thức.

8. Do đó, ai muốn tiến lên cùng Thiên Chúa phải tránh xa tội lỗi vốn làm biến dạng bản tính con người.  Các khả năng tự nhiên của linh hồn mô tả ở trên phải được sức mạnh của ân sủng cải hóa qua việc cầu nguyện.  Các khả năng này cũng phải được sự công chính thanh luyện qua công việc hằng ngày.  Chúng cũng phải được tri thức soi sáng qua việc suy ngắm, và phải được khôn ngoan kiện toàn qua việc chiêm niệm. Vì cũng như chẳng ai đạt tới đức khôn ngoan nếu không nhờ ân sủng, công chính và tri thức, cũng vậy chẳng ai đạt tới chiêm niệm nếu không nhờ các phương tiện suy ngắm sâu xa, đời sống thánh thiện, và cầu nguyện sốt sắng. Vì như ân sủng là nền tảng cho sự ngay thẳng của ý chí và lý trí sáng suốt, cho nên trước hết ta cần phải cầu nguyện. Rồi chúng ta phải sống thánh thiện nữa. Và sau là phải tập trung suy nghĩ về chân lý.  Khi chăm chú đến những điều này chúng ta phải dần dần tiến lên, cho đến khi tới đỉnh núi, tới chiêm ngưỡng Chúa Trời trên núi Sion (Tv 84,8).

9. Giờ đây, vì chúng ta phải đi lên trước khi có thể đi xuống trên chiếc thang Giacóp (St 28,12), nên chúng ta hãy bước lên bậc một từ dưới cuối, nghĩa là hãy đặt cả thế giới khả giác trước mặt chúng ta như một tấm gương qua đó chúng ta có thể đến với Thiên Chúa, nhà Nghệ Sĩ sáng tạo tối cao. Bằng cách này chúng ta có thể trở nên những người Do Thái đích thực vượt qua Ai cập tới vùng đất đã được hứa cho các Tổ phụ (St 28,13 tt; Xh 13,3 tt).  Chúng ta sẽ là những Kitô hữu cùng Đức Kitô vượt qua từ thế giới này về với Chúa Cha (Ga 13,1). Chúng ta sẽ thành những người mộ mến đức khôn ngoan vốn cất tiếng gọi: Hãy đến với ta, hỡi tất cả những ai khao khát, và ta sẽ làm cho thỏa lòng. Vì chính trong sự cao cả và xinh đẹp của các thụ tạo mà Đấng Tạo Hóa của chúng được nhận biết (Kn 11,21).

10. Sức mạnh, khôn ngoan, và sự tốt lành siêu việt của Đấng Tạo Hóa chiếu giãi nơi các tạo vật như các giác quan thể lý thông tri cho các giác quan nội tâm theo ba phương cách. Vì các giác quan thể lý trợ giúp trí tuệ khi trí tuệ dùng lý lẽ để tra vấn, dùng đức tin để tin nhận, hay dùng thông tri để chiêm ngưỡng. Khi chiêm ngưỡng, trí tuệ nhận ra sự hiện hữu của mọi vật; khi tin, nó nhận ra các dòng sự kiện đang xảy ra; và khi tra vấn với lý trí, nó chú tâm đến sự tuyệt hảo tiêm tàng trong các sự vật.

11. Theo cách nhìn thứ nhất, khi chiêm ngưỡng, chúng ta xem các sự vật nơi chính bản thân chúng qua các bình diện như trọng lượng, số lượng, và kích thước. Qua trọng lượng ta thấy nơi chốn mà các sự vật có khuynh hướng nghiêng xuống, qua số lượng các sự vật được phân biệt, và qua kích thước các sự vật được giới hạn. Như vậy, chúng ta nhìn các sự vật theo hình thức, giống loại, và thứ bậc cũng như các khía cạnh bản chất, khả năng, và hoạt động. Từ tất cả những bình diện này, chúng ta có thể vươn lên từ dấu tích đến sự hiểu biết về sức mạnh, khôn ngoan và tốt lành vô biên của Đấng Tạo Hóa.

12. Theo cách nhìn thứ hai, là cách nhìn theo đức tin, chúng ta xem xét thế giới này bằng cách chú tâm đến nguồn gốc, sự phát triển và dứt điểm của nó. Vì nhờ đức tin, chúng ta nhận ra rằng thế giới này được tạo thành bởi Lời sự sống (Dt 11,3). Nhờ đức tin chúng ta tin rằng các giai đoạn của ba qui luật nối tiếp nhau theo một trật tự hoàn hảo: luật tự nhiên, luật Kinh Thánh, và luật ân sủng. Nhờ đức tin chúng ta tin rằng thế giới sẽ tiến tới một kết thúc qua cuộc phán xét cuối cùng. Như thế, qua nguồn gốc, chúng ta nhận diện quyền năng của Nguyên lý tối cao; qua phát triển, chúng ta nhận thức sự quan phòng của nguyên lý ấy; và qua chung thẩm, chúng ta cảm nhận sự công chính của cùng một Nguyên lý ấy.

13. Theo cách nhìn thứ ba, khi chúng ta tra trầm bằng lý trí, chúng ta thấy rằng có những vật chỉ hiện hữu; có những vật hiện hữu và sống; có những vật hiện hữu, sống và phán đoán. Ở đây chúng ta nhận thấy loại một thì kém hoàn hảo nhất; loại hai trung bình; còn loại ba hoàn hảo hơn hết. Chúng ta lại thấy rằng có loại chỉ là xác, có loại thì vừa là xác vừa là hồn; và từ đó chúng ta kết luận rằng có loại toàn là hồn, và bởi thế tốt hơn và có phẩm giá cao cả hơn hai loại kia. Chúng ta cũng thấy rằng có những loài thì dễ biến đổi và dễ bị hủy diệt chẳng hạn những loài sống trên đất; có những loài có thể biến đổi nhưng lại bất diệt chẳng hạn như các loài ở trên trời; và từ đó có thể kết luận rằng có những loài bất biến và bất diệt như những loài vược lên trên cuộc sống trần thế này.

Vì thế từ những thực tại hữu hình, chúng ta vươn lên nhìn ngắm quyền năng, khôn ngoan và sự tốt lành của Thiên Chúa vì Thiên Chúa hiện hữu, sống động và thông minh, và là Đấng thần thiêng liêng, bất diệt và bất biến.

15.  Vì thế, ai mà không được soi sáng bởi ánh huy hoàng vĩ đại như thế nơi các thụ tạo là kẻ mù.  Ai mà không được thức tỉnh bởi tiếng mời gọi thôi thúc như thế là kẻ điếc. Ai mà không ngợi khen Thiên Chúa từ những tác động như thế là kẻ câm. Ai mà không trở về với Nguyên lý tiên khởi là kẻ khờ dại. Vì thế bạn hãy mở mắt, đánh thức đôi tai thiêng liêng, cởi mở đôi môi và hãy khuấy động lòng bạn (Cn 22,17) để nơi các thụ tạo bạn có thể thấy, nghe, ngợi khen, yêu mến và tôn thờ, tán dương và tôn vinh Thiên Chúa của bạn, kẻo rồi toàn thế giới này sẽ nổi lên chống lại bạn. Bởi chính vì điều này mà toàn thế giới sẽ chống lại những kẻ khờ dại (Kn 5,21). Mặt khác, thế giới này sẽ là nguyên nhân ca ngợi cho những ai khôn ngoan: họ có thể nói với những lời của vị ngôn sứ: Lạy CHÚA, sự nghiệp Ngài khiến con mừng rỡ, thấy việc tay Ngài làm, con phải reo lên. Công trình Ngài, lạy CHÚA, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất (Tv 92,4; 104,24).


👉 (đọc tiếp các chương tiếp theo tại đây)

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.