Skip to content
Main Banner
Thánh Têrêsa Hài Đồng (01/10)
Ngôn ngữ

CÁC VỊ SÁNG LẬP: PHANXICÔ VÀ CLARA

BTT OFMVN 01
2025-10-18 08:19 UTC+7 35
anhchiem-phansinh-1760752274.png

ANH CHỊ EM PHAN SINH

Tác giả: Tu sĩ William J. Short, OFM

Chuyển ngữ: Tu sĩ Irênê Nguyễn Thanh Minh, OFM


Chương I: Các Vị sáng lập: Phanxicô và Clara

  • SỰ PHÁT TRIỂN BAN ĐẦU CỦA BA DÒNG

  • DÒNG CÁC ANH CHỊ EM SỐNG ĐỜI ĐỀN TỘI

  • DÒNG CÁC CHỊ EM NGHÈO KHÓ

  • DÒNG ANH EM HÈN MỌN


Chương I: Các Vị sáng lập: Phanxicô và Clara

Phanxicô sinh năm 1182 tại Assisi. Khi Ngài lên 5 tuổi, Giêrusalem rơi vào tay các lực lượng Hồi giáo do Saladin lãnh đạo. Biến cố này gây nên các cuộc Thập tự chinh vĩ đại về phía Kitô giáo tây phương, một phong trào đã ảnh hưởng trực tiếp cuộc đời Phanxicô, cũng như đã tạo nên những hậu quả sâu xa trong phát triển của gia đình Phan sinh. Khoảng năm 1189, có lẽ Phanxicô đã bắt đầu theo học dưới quyền giám hộ của linh mục tại nhà thờ thánh Giorgio ở Assisi; đây là nơi sau này thi hài của Phanxicô được cung kính khi qua đời, và ngày nay được sáp nhập vào vương cung thánh đường xinh đẹp thánh Clara, nơi còn lưu giữ thi hài của thánh nữ.

Clara sinh ra trong cùng một thành phố Assisi năm 1194, khi Phanxicô lên 11 tuổi. Vài năm sau đó, Frederick II, vị thánh hoàng đế Roma tương lai, chào đời; ông chịu phép Rửa tội cùng năm ấy, có lẽ cũng tại Assisi. Một năm nữa trôi qua, và có lẽ Phanxicô đã bắt đầu vào nghề kinh doanh với thân phụ, như là người buôn bán áo xống. Khi Phanxicô lên 16 tuổi, năm 1198, pháo đài Rocca, một pháo đài của giới quí tộc phong kiến ở Assisi, bị một số người Công xã tấn công; hành động này dẫn đến cuộc nội chiến ở Assisi. Cuộc nội chiến này đặt giới quý tộc già nua rơi vào thế đối lập với giai cấp buôn bán mới đầy quyền lực đang nổi lên. Gia đình Clara đại diện cho giới quý tộc, và gia đình Phanxicô tiêu biểu cho tầng lớp thương gia.

Làn sóng chiến tranh lan rộng trong vòng 4 năm. Công xã Assisi chiến đấu chống kẻ thù là thành phố Perugia, kề cận qua một thung lũng. Năm 1202, Phanxicô, 20 tuổi, tham gia vào cuộc chiến mở đầu này: người Assisi thảm bại hoàn toàn, và Phanxicô bị bắt làm tù binh ở Perugia. Một năm sau, Phanxicô được phóng thích và trở về Assisi với một căn bệnh hiểm nghèo mắc phải khi bị tù. Năm 1204, Phanxicô khỏi bệnh và tiếp tục công việc buôn bán vải vóc với cha. Tuy vậy Phanxicô ở tại Assisi không lâu. Năm 1205, Phanxicô đi đến miền nam nước Ý để tiến hành một cuộc chiến mới dưới quyền của Walter Brienne, vị tướng quân nổi tiếng. Phanxicô chỉ mới đi một đoạn đường ngắn từ Assisi đến Spôlêtô, vừa xuống thung lũng, trước khi Người ngã bệnh một lần nữa. Các nhà chép sử nói rằng Phanxicô gặp một thị kiến trong lúc chán nản thất vọng. Chàng thấy một tòa nhà đầy vũ khí và nghe một tiếng hỏi Người ‘Phục vụ chủ nhân hoặc người tôi tớ, điều nào tốt hơn?’ Phanxicô đáp lại ‘Dĩ nhiên là chủ nhân’. Tiếng ấy nói ‘Vậy tại sao ngươi lại phục vụ người tôi tớ?’. Chúng ta đã bắt đầu nhận thấy một sự biến đổi nơi Phanxicô, giờ đây chàng bắt đầu tìm cách thực hiện mộng ước trở thành hiệp sĩ bằng một con đường khác.

Chàng trở về Assisi và hình như bắt tay vào một cuộc hoán cải tôn giáo. Các tác giả thời đầu nói rằng Chàng bắt đầu tìm đến những nơi cô tịch, và lữ hành đến Roma như khách hành hương trong năm ấy. Tại đây, theo Thomas Celanô, chàng hòa mình vào giữa những người ăn xin tại cửa đền thờ thánh Phêrô, và trao đổi áo xống của mình cho họ. Khi trở về Assisi, chàng tìm đến một ngôi nhà mới, với một linh mục tại một nhà thờ nhỏ hư nát San Đamianô, bên ngoài thành phố. Chàng dứt khoát nhưng cũng đau lòng từ bỏ gia đình và sự nghiệp đã làm trước đây. Lấy vải vóc nơi cửa hàng của thân phụ, chàng đến Spôlêtô; nơi đây chàng bán hết vải vóc và con ngựa đang cưỡi nhằm có tiền sửa chữa ngôi nhà thờ đang ở. Đó là năm 1206, khi Phanxicô được 24 tuổi.

Cha chàng kết tội chàng là ăn trộm và kiện ra tòa án. Từ đó Phanxicô bắt đầu sống như 1 giáo dân dưới sự che chở của Giáo hội; Đức Giám mục Assisi, Guiđô, triệu tập hai cha con để nghe các cáo buộc và đưa ra lời phán quyết tại tòa của mình. Phanxicô từ bỏ thân phụ và trả lại cho ông ngay cả bộ áo quần đang mặc, và, theo các truyện ký tiên khởi, chàng tuyên bố từ nay không gọi bất kỳ ai dưới đất là ‘cha’, ngoại trừ Thiên Chúa. Phanxicô đã thực hiện một bước tiến đầy ấn tượng trong việc đảm nhận một lối sống mới.

Vào cuối đời, Phanxicô nói đến những thay đổi xảy ra trong nội tâm vào những ngày đầu của đời hoán cải. Biến cố đó xảy ra khi Phanxicô sống với những người phong cùi. Phanxicô viết trong Di chúc: Chúa đã ban cho tôi, tu sĩ Phanxicô, ơn bắt đầu cuộc đời hoán cải như thế này: khi còn sống trong tội lỗi, mỗi lần trông thấy người phung, tôi lấy làm ghê tởm lắm. Nhưng chính Chúa đã dẫn tôi đến với họ và tôi đã tỏ lòng thương xót họ. Khi xa cách họ, điều trước kia đối với tôi là ghê tởm đã trở thành ngọt ngào cho tôi trong tâm hồn cũng như ngoài thể xác. Sau đó, tôi chờ đợi ít lâu và ra khỏi thế gian. (1-3)

Phanxicô đưa thêm một ít chỉ dẫn nữa về những gì đã xảy ra vào thời kỳ đó: ‘Tôi ra khỏi thế gian’. Tiếng Latinh thô thiển của Phanxicô trong Di chúc không nói rõ các chi tiết. Chàng chỉ nói ‘ra khỏi’, có nghĩa là chàng từ bỏ lối sống thông thường chàng biết đến cho đến lúc này, mà chàng gọi là ‘thế gian’

Một lần nữa chúng ta được mời gọi lấp đầy các chi tiết từ những truyện ký thu thập được sau khi Phanxicô đã qua đời. Từ đó chúng ta biết Phanxicô sống như một ẩn sĩ giáo dân trong một thời gian, rồi tự đồng hóa mình với những người ‘đền tội’.

Những người đền tội là thành phần của một phong trào rộng lớn canh tân đời sống Kitô hữu lan tràn khắp Âu châu từ những thế kỷ trước. Vào thời Phanxicô, có những người sống trong hoặc ven các thành phố đang lớn mạnh, kẻ khác lại cư ngụ tại những vùng xa xôi hẻo lánh, trên các ngọn đồi hoặc trong những cánh rừng. Họ là những người nam và nữ không thuộc dòng tu chính thức nào. Họ là những người giáo dân, từ những tầng lớp khác nhau trong xã hội, chia sẻ khát vọng sống theo Tin mừng theo như cách họ hiểu: từ bỏ của cải, hiến thân mình trong kinh nguyện và chay tịnh, làm việc để có của nuôi thân, đôi khi rao giảng. Một số sống thành cộng đoàn, một số sống một mình. Trong phong trào to lớn này, Phanxicô chọn một cách sống: cầu nguyện, chay tịnh và làm việc bằng cách sửa chữa các ngôi nhà nguyện nhỏ quanh vùng Assisi. Ngoài nhà nguyện San Đamianô, Phanxicô còn sửa chữa hai nhà nguyện nhỏ khác mà tên tuổi được các tài liệu thời trước gọi là San Pietro, và ‘mãnh đất nhỏ’ Portioncula, được dâng kính cho Đức Maria Nữ vương các Thiên thần trong đáy thung lũng thành Assisi.

Các đồ đệ người không tả lại chi tiết những năm đầu cuộc đời đền tội của Phanxicô. Trong hai hoặc ba năm sau đó Phanxicô tiếp tục làm việc, tìm thấy nguồn an ủi giữa những người phong cùi, và cầu nguyện. Tại nhà nguyện Portioncula, Phanxicô đã nghe bài Tin mừng nói về việc Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng. Khi nghe đoạn Tin mừng này, Phanxicô quyết định rập khuôn đời mình sống theo gương của các môn đệ Đức Giêsu: Chàng vất gậy áo và dây thắt lưng, rồi sống như các môn đệ đầu tiên đã sống.

Câu chuyện này là chuyện đổi thay từ cách sống này đến cách sống khác, là hình ảnh của cuộc hoán cải tôn giáo nơi một con người. Nhưng đây chưa phải là câu chuyện của một gia đình Phan sinh rộng lớn. Đây là câu chuyện của một người, và nó được lưu lại khá kỹ càng.

Năm 1208 lối sống của Phanxicô thay đổi tận căn: lối sống này thu hút một số người muốn đến chia sẻ đời sống với Phanxicô. Để diễn tả khúc quanh này, Phanxicô viết trong Di chúc câu văn đơn sơ này: ‘Chúa đã ban cho tôi những anh em’. Chúng ta biết tên của ba người. Họ sẽ trở thành những người tường thuật lại câu chuyện về gia đình Phan sinh vào thời sơ khai. Đó là Bênađô Quintavalle, một công dân giàu có thành Assisi; Phêrô Catanê, một luật sư, và Gilê, một giáo dân ít chữ nghĩa nhưng có đời sống cầu nguyện sâu sắc. Cuộc hoán cải cá nhân của Phanxicô bây giờ trở nên thành phần của dự phóng đời sống chung; gia đình Phan sinh đã thực sự bắt đầu.

Anh em Phan sinh thực hiện các cuộc rao giảng nơi những vùng lân cận: từ Ancona, một vùng đồi núi phía đông bắc Ombria, họ đi xuống phía nam qua thung lũng Rieti, để lên phía bắc đến vùng Florence ở Tuscany. Năm 1209, 12 anh em làm thành một gia đình, và họ cùng đi Roma để xin Đức Giáo hoàng Innoxentiô III phê chuẩn’ lối sống’ (forma vitae). Nhiều năm sau đó Phanxicô viết trong Di chúc: ‘Sau khi Chúa đã ban cho tôi một số anh em, không ai chỉ bảo cho tôi phải làm gì, nhưng chính Đấng tối cao đã mạc khải cho tôi biết phải sống theo mẫu mực thánh Phúc âm. Và tôi đã xin viết ra luật sống ấy một cách đơn sơ và ngắn gọn, và Đức Thánh Cha đã xác nhận cho tôi’. (14-15)

Sự phê chuẩn chỉ bằng miệng; dù vậy nó vẫn làm thỏa lòng nhóm anh em mới được hình thành: họ có thể sống dưới sự che chở của Giáo hội mà không phải sợ rơi vào lạc giáo như một số nhóm người chủ trương đổi mới vào thời đó.

Trên đường trở về Assisi, nhóm anh em này cư ngụ tại một ngôi nhà bỏ hoang trong thung lũng gần nhà nguyện Portioncula. Một người dân địa phương đã đến xua đuổi họ ra khỏi nơi nương náu này. Các tu sĩ tại tu viện Mt. Subasiô, ở trên thành phố, sở hữu nhà nguyện Portioncula, đã cho phép họ đến tá túc tại đây.

Một số tác giả nghĩ rằng vào lúc này Phanxicô, nay đã 27 tuổi, bắt đầu hướng dẫn một nhóm lớn hơn gồm những anh chị em sống đời đền tội trong vùng này, và Phanxicô đã viết cho họ ‘Bản Huấn dụ dành cho anh chị em sống đời đền tội’. Phanxicô đã mô tả cuộc hoán cải của mình như là ‘việc bắt đầu đền tội’ và, cho đến hết đời, Phanxicô chứng tỏ một sự quan tâm sâu sắc đối với Dòng Đền tội này. Rất nhiều thành viên trong nhóm Đền tội đã tự nguyện liên kết với Gia đình Assisi này. Họ làm nên thành phần quan trọng của Phong trào Phan sinh ngay từ thở ban đầu. Phanxicô và các anh em người lúc đầu, một cách đơn giản gọi mình là Những người Đền tội thành Assisi, và sau đó mới chọn tên là Anh em Hèn mọn (Lesser Brothers, Friars minor, Fratres minores)

Trong khoảng hai năm tiếp sau đó, các tài liệu nguồn rất ít thông tin về đời sống của nhóm nhỏ này. Chúng ta biết có nhiều người gia nhập nhóm này, và chúng ta có thể đoan chắc rằng họ tiếp tục sống lối sống mà Phanxicô đã sống trước đây: cầu nguyện, làm việc, sửa chữa các nhà nguyện, các việc làm tay chân khác, phục vụ người phong cùi, xin của bố thí khi làm việc không lương, bởi vì họ không có của cải để sinh lợi. Phanxicô được phép giảng thuyết, và Ngài đã rao giảng tại nhà thờ thánh Rufinô vào mùa chay năm 1212 (hoặc 1211). Lời lẽ của Ngài tác động sâu sắc đối với một người nữ trẻ quý phái.

Lúc tuổi 18, tiểu thư Clara, con gái của ngài Favarone di Offreduccio và công nương Ortolana, chọn bước theo ‘lối sống Tin mừng’ do Phanxicô và anh em ngài sống và giảng dạy. Vào mùa chay năm đó, cô ta quyết định rời bỏ gia đình đêm chúa nhật lễ lá, cùng đi với người chị họ. Họ đi vài dặm từ thành phố qua những cánh đồng trong vùng Assisi để đến nhà nguyện Đức Maria Nữ vương các Thiên thần. Tại đây Phanxicô và các bạn hữu, có cả Rufinô và Sylvetê, thân thuộc của Clara, đón tiếp cô. Phanxicô cắt tóc và mặc cho cô chiếc áo giản dị như là dấu chỉ cho sự che chở của Giáo hội. Clara liền đến ở trong nữ tu viện Benedictine gần Bastia. Sau ‘ít ngày’, cô lại chuyển đến sống trong tu viện Chị em Sống đời đền tội, Bizzoche, tại nhà thờ thánh Angelô ở Panzo. Nơi đây, hai tuần sau, em của cô là Agnes cũng đến theo cô. Thomas de Celano viết trong cuốn ‘Cuộc Đời của Clara’ rằng Clara không hoàn toàn cảm thấy ‘ổn định’ ở đây, và Phanxicô sắp xếp cho cô đến trú ngụ tại nhà nguyện San Đamianô, nơi mà chính Ngài đã sống và tu sửa lại.

Trong thời gian đó, có những người nữ khác đến chia sẻ đời sống với Clara tại San Đamianô. Họ làm thành một nhóm chuyên lo cầu nguyện, làm việc tay chân và sống nghèo khó, không tích trữ thu nhập và không có tài sản sinh lợi, nhưng chạy đến ‘bàn tiệc của Chúa’ (đi xin của bố thí) khi không đủ sức đáp ứng các nhu cầu của mình. Thỉnh thoảng họ được gọi là Các Bà nghèo khó, Chị em hèn mọn, hoặc ‘các ẩn sĩ nghèo khó San Đamianô’. Mặc dầu trong một số tài liệu, họ được nhắc tới như những nữ tu (nuns,moniales), nhưng chính Clara luôn gọi các thành viên trong gia đình của mình với tên gọi đơn giản là ‘các chị em’(sisters), và gọi Dòng Ngài là Dòng các Chị em Nghèo khó.Clara đã chọn một tên gọi nói lên tính mới mẻ của Hội dòng : những phụ nữ chiêm niệm sống đời tu kín với kinh nghiệm sâu sắc về tình chị em mà không có thu nhập nhất định.

Làn gió đổi mới tu trì thổi qua khắp cả Âu châu khiến Đức giáo hoàng Innocentiô III kêu gọi triệu tập công đồng Lateranô IV vào năm 1215. Một trong những mục tiêu của công đồng là thể thức hóa tình trạng của nhiều nhóm người muốn sống một lối sống Kitô hữu triệt để hơn: những người muốn canh tân đời sống của mình trong lòng Giáo hội. Những nhóm mới thành lập ở Assisi, được tổ chức chung quanh Phanxicô và Clara, thuộc những nhóm cần phải xem xét cẩn thận. Công đồng cấm phê chuẩn bất cứ luật mới nào cho các nhóm tu sĩ: tất cả phải dựa vào một trong các luật lệ được phê chuẩn trước, chẳng hạn luật Biển đức, Xitô, hay Augustinô. Do đó vào năm 1215 Clara được gọi là ‘đan viện trưởng’ của tu viện San Đamianô, mặc dầu Ngài không muốn. Có thể vào năm 1216 hay 1217 Phanxicô viết cho Clara một ‘bản luật sống’ (forma vitae), đúng như Phanxicô đã làm cho anh em Ngài trước kia. Vào khoảng thời gian này Clara nhận được từ Đức Giáo hoàng lời hứa về ‘đặc ân sống nghèo’. Nhờ sự ưu đãi khác thường này của Đức Giáo hoàng mà Clara được bảo đảm là mình và chị em mình không buộc phải có tài sản riêng như nguồn lợi tức nhất định để sinh sống (tiền thuê nhà, lợi nhuận do các tá điền canh tác). Tuy nhiên, vào năm 1219, Đức Giáo hoàng Honorio đã phê chuẩn bản luật do Đức Hồng y Ugolino soạn thảo; do đó Clara và các chị em phải nhận bản luật của thánh Biển Đức như là nền tảng của đời sống mình.

Trong vòng 40 năm sau đó, Clara và các chị em không ngừng tranh đấu để Đức Giáo hoàng chấp thuận một thể thức sống và một bản luật, chứng tỏ rõ ràng họ là những thành viên chính thức của gia đình Phan sinh thay vì là thành viên của gia đình Biển Đức. (Clara đã thắng cuộc khi Luật dòng do chị soạn thảo được chấp thuận không lâu trước khi chị qua đời).

Phanxicô và anh em Ngài được phép tiếp tục sống theo ‘luật sống’ của mình, rõ ràng bởi vì họ đã được Đức Giáo hoàng chấp thuận bằng miệng 6 năm trước khi triệu tập Công đồng (1209). Phải đợi đến năm 1223, bản luật của Phanxicô mới được chính thức nhìn nhận, nhưng ít nhất họ không bị buộc phải chọn một bản luật khác. Điều này đã giúp Clara trong nỗ lực xin phê chuẩn bản luật riêng của mình dành cho Chị em Nghèo khó (CENK), tương tự như bản luật của Phanxicô và của Anh em Hèn mọn (AEHM).

Sau Công đồng, Phanxicô soạn thảo một văn bản dài hơn về ‘luật sống’ mà trước đây ngài đã trao ban cho Anh chị em Đền tội (ACEĐT). Bản văn này được biết đến ngày nay như là bản viết cuối cùng ‘Thư gửi tất cả các tín hữu’; bản văn đề ra những nét đặc trưng của cuộc sống người đền tội trong quỹ đạo của phong trào Assisi, với sự đề phòng đặc biệt tránh các mối nguy lạc giáo của các phong trào Tin mừng thời đó, như công đồng hằng quan tâm.

Phanxicô đối diện với một câu hỏi rất riêng tư và sâu sắc về hướng đi của mình lúc bấy giờ. Bị lôi cuốn vào cuộc sống ẩn dật và cầu nguyện, nhưng đồng thời cũng thao thức rao giảng cho kẻ khác, Phanxicô quay sang nhờ Clara và Sylvete giúp đỡ để biết ý định của Thiên Chúa. Cầu nguyện hay rao giảng? Câu trả lời của 2 người thật rõ ràng: Phanxicô phải tiếp tục con đường đã bắt đầu, tiếp tục rao giảng lẽ đền tội.

Sứ vụ rao giảng đã buộc Phanxicô phải rời xa quê nhà vùng Assisi. Cuộc hội nghị của anh em (còn gọi là Tổng Tu nghị) năm 1217 đã gửi anh Giles đi Tunis, anh Elia đi Syria, và Phanxicô sang Francia (có lẽ thuộc một vùng của nước Bỉ ngày nay). Đức Hồng y Ugolinô, vị cố vấn và đấng bảo trợ phong trào Phan sinh thuở ban đầu, đã thuyết phục Phanxicô quay trở lại Florence. Năm 1219, Phanxicô thực hiện một chuyến đi đến Cận đông, một vùng đang bị rối loạn bởi cuộc chiến giữa các đoàn quân Thập tự chinh và các lực lượng Hồi giáo. Cùng đi với anh Illumianô, Phanxicô đến gặp vua Hồi giáo Sultan, gần chiến trường Đamiêtta, Ai cập. Hai con người không mang khí giới này đã băng qua vùng ‘đất cấm’giữa các trại quân Thập tự chinh và quân đội Hồi giáo, để đến gặp vua Sultan. Một nhân chứng của sự kiện này kể lại như sau:

‘Chúng tôi đã thấy đấng sáng lập và đứng đầu Hội dòng này...Ngài là người đơn sơ ít chữ nghĩa, nhưng được Thiên Chúa và mọi người yêu thương; Ngài được gọi là anh Phanxicô.Sự hăng hái thiêng liêng và lòng say mê đạo đức đã thúc đẩy Ngài thực hiện những gì vượt quá giới hạn. Ngài đến nơi quân đội của người Kitô hữu ở Đamietta, bên Ai cập; không hề sợ bất cứ điều gì, và chỉ mạnh sức với ‘áo giáp đức tin’, Ngài tiến đến binh trại của Sultan. Khi quân Hồi giáo bắt Phanxicô làm tù binh, Ngài nói: ‘Tôi là Kitô hữu! Hãy dẫn tôi đến với Vua của các anh’. Khi gặp con người của Thiên Chúa, vua Sultan, con người tàn bạo hung ác, đã trở nên dịu dàng hòa nhã. Ông giữ Phanxicô lại với ông vài ngày. Ông chăm chú lắng nghe Phanxicô giảng về niềm tin nơi Đức Kitô cho ông và các thuộc hạ của ông. Nhưng cuối cùng, vì sợ các binh lính của mình bị những lời hay ho của Phanxicô làm cho họ trở lại với Chúa, rồi gia nhập vào quân đội người Kitô hữu; Sultan, với lòng kính trọng, để cho Phanxicô trở về an toàn và nói với Ngài: ‘Hãy cầu nguyện cho tôi, để Thiên Chúa có thể mặc khải cho tôi lề luật và đức tin nào làm đẹp lòng Người hơn cả’ (Jacques de Vitry, Historia orientalis, ch 13)

Năm sau đó, Phanxicô trở lại Assisi, bị tác động nặng nề do những thay đổi trong lối sống của Huynh đệ đoàn trong thời gian Ngài vắng mặt. Có lẽ vào thời kỳ này (nếu không phải là trước khi Ngài ra đi), Ngài từ chức tổng phục vụ, và đặt anh Phêrô Catanê, người bạn đồng hành tiên khởi, và là một luật sư, làm người kế nhiệm mình. Phêrô qua đời một khoảng thời gian ngắn sau đó; và Êlia Bombaronê được bầu làm tổng phục vụ thay thế.

Tại Tổng tu nghị dịp lễ Hiện xuống năm 1221, Phanxicô đưa ra bản luật dòng được duyệt lại và nới rộng ra; bản luật, mà cho tới nay, chỉ được Đức giáo hoàng phê chuẩn bằng miệng. Bản luật này cũng đã không được chính thức công nhận, nên Phanxicô phải trở lại với công việc duyệt xét một lần nữa.

Vào khoảng năm 1222. Phanxicô trở lại với công việc rao giảng ở miền nam nước Ý và sau đó là ở Bologna, miền bắc. Ngài vẫn tiếp tục công việc duyệt lại bản luật dòng AEHM, và đã hoàn tất năm 1223. Bản luật này đã được ĐGH Honorio III phê chuẩn vào mùa thu năm đó, và vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay như Bản Luật của anh em. Khi bản luật đã được phê chuẩn, Phanxicô tham dự tổng tu nghị lễ Hiện xuống năm 1224; đây là tu nghị cuối cùng Phanxicô tham dự. Vào tháng 9 năm ấy, trong dịp tĩnh tâm tại núi La Verna ở Tuscany, Phanxicô trải qua một kinh nghiệm thần bí sâu sắc về Đức Kitô chịu đóng đinh. Khi từ núi La Verna trở lại, các bàn tay, bàn chân và cạnh sườn của Phanxicô đã được in hình các dấu tích vết thương của ĐK.

Kiệt sức vì những khổ chế nặng nề và vì bệnh tật, Phanxicô tiến dần đến cái chết. Ngài hầu như bị mù, và các bác sĩ đã cố gắng chữa trị cho Ngài tại Assisi, tại Fontê Colombo, và cuối cùng tại Siena, nhưng không kết quả.

Chính trong khoảng thời gian chịu đau đớn nặng nề về thể xác và gần như đui mù, Phanxicô đã sáng tác Bài ca Anh Mặt trời, một kiệt tác về đời sống nội tâm của Ngài. Đây là một bản thánh ca, ca ngợi sự tốt lành của TC, sự tốt lành của vạn vật, và cũng nói đến cái chết sắp đến.

“Lạy Thiên Chúa Tối Cao,
Toàn năng và Tốt lành,
Lời ngợi khen, tôn vinh, danh dự,
và mọi lời chúc tụng đều thuộc về Ngài,

và xứng hợp cho riêng mình Ngài,
ôi Đấng Tối Cao,
và không ai xứng đáng gọi Danh Ngài.

Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
với muôn loài thọ tạo,
đặc biệt nhất Ông Anh Mặt Trời,
Anh là ánh sáng ban ngày,
nhờ Anh, Ngài soi chiếu chúng tôi,

Anh đẹp và tỏa ánh rạng ngời,
Anh tượng trưng Ngài, lạy Đấng Tối Cao.

Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị Trăng và muôn Sao
Chúa dựng trên nền trời:
lung linh, cao quí và diễm lệ.

Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Anh Gió, Không khí và Mây trời,
cảnh thanh quang và bát tiết tứ thời
nhờ Anh, Chúa bảo tồn muôn vật.

Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị Nước,
thật lợi ích và khiêm nhu,
quí hóa và trinh trong.

Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Anh Lửa,
nhờ Anh, Chúa sáng soi đêm,
Anh đẹp và vui tươi,
oai hùng và mạnh mẽ.

Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị chúng tôi, là Mẹ Đất,
Chị đỡ nâng, Chị dìu dắt
Chị sinh ra bao trái trăng,
hoa muôn màu giữa ngàn cỏ dại.

Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì những người biết thứ tha
nhân danh tình yêu Chúa,
và chịu bệnh tật ưu phiền.

Phúc cho ai chấp nhận trong an hoà,
vì lạy Chúa Tối Cao,
Ngài sẽ thưởng triều thiên .

Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị Chết đang đợi chờ thân xác;
Phàm-nhân ai thoát khỏi?

Bất hạnh người khi lâm chung,
Tội tình còn mang nặng!
Phúc thay ai trong giờ Chị tới,
thánh ý Ngài vẫn quyết tuân theo,
chết thứ hai không làm hại được.

Hãy ngợi khen và chúc tụng Chúa tôi,
hãy tạ ơn và phụng sự Người
với trọn lòng khiêm hạ”.

Phanxicô qua đời vào tối mồng 3 tháng 10 năm 1226 tại Portioncula. Thi thể của Ngài được chôn cất trong thành phố, trước hết tại nhà thờ thánh Giorgio (sau này là một vương cung thánh đường tráng lệ để tôn vinh Ngài). Trên con đường đến cửa thành, đám rước mang thi hài của ‘người nghèo hèn mọn’ dừng lại ở tu viện San Đamianô. Tại đây Clara và chị em lần cuối cùng được nhìn thấy người anh em và bạn của mình, giờ đây đã được in năm dấu thánh ĐK.

Năm 1228, tại Assisi, Phanxicô được đức nguyên Hồng y Ugolino, nay là GH Gregory IX nâng lên hàng hiển thánh. Vị tân giáo hoàng này cũng tái xác nhận cho Clara ‘đặc ân sống nghèo’, chấp nhận cho Clara và chị em tại San Đamiano được quyền sống mà không có thu nhập từ đất đai hoặc do thuê mướn, nhưng sống bằng công việc do tay mình làm và ăn xin. Raynald, đại diện của ĐGH đối với các cộng đoàn nữ tu tại San Đamiano đã liệt kê được 25 cộng đoàn Chị em Nghèo khó vào thời gian này. Hai năm sau đó, Agnes, em của Clara, rời khỏi San Đamiano để lập một cộng đoàn mới tại Monticelli, gần Florence. Dầu vậy, bản luật dòng của Clara vẫn chưa được chính thức phê chuẩn.

Sức khỏe của Clara bắt đầu suy yếu dần và Ngài phải nằm trên giường bệnh nhiều hơn. Trong những năm này, Ngài chịu đựng những nỗi thất vọng mới trong cố gắng nhằm thuyết phục giáo triều phê chuẩn bản luật dòng cho Ngài. Năm 1243, ĐGH Innocent IV đã khước từ lời thỉnh cầu của Clara xin phê chuẩn luật dòng và tái xác nhận bản luật dòng được Đức Gregory IX, vị tiền nhiệm của Ngài, ban trước đó. Cuộc tranh đấu của Clara cho việc xin phê chuẩn bản luật dòng vẫn tiếp tục trong vòng một thập niên sau đó. Tuy nhiên ĐGH Innocent IV đã thực sự cho phép Clara đạt được một điểm rất quan trọng: đó là vào năm 1247, sau khi đã thất bại trong nỗ lực kết hợp dòng AEHM và dòng các CENK thành một thực thể duy nhất, ĐGH đã thay thế bản luật của thánh Bênêđictô bằng bản luật của Phanxicô như là nền tảng theo cơ chế giáo luật cho đời sống của Clara và các chị em của Ngài. Về điều này, Clara coi như, ít là, một chiến thắng từng phần trong việc đạt được một bản luật cho riêng mình. Trong lúc làm giảm nhẹ các việc khổ hạnh mà các Chị em nghèo khó đang tuân giữ, pháp chế của ĐGH Innocente IV giờ đây đã chính thức nhìn nhận các CENK thuộc về gia đình Phan sinh, thay vì thuộc gia đình Bênêđictô.

Những năm sau đó, Raynald Segni, vị Hồng y bảo trợ của CENK, chứng tỏ mình là đồng minh của Clara, trong vai trò là đấng bảo trợ, đã phê chuẩn bản dự thảo luật dòng do Clara viết. Vào năm cuối đời, lúc trên giường bệnh, Clara đã nhận được lời phê chuẩn chung cuộc cho luật dòng, qua sắc lệnh của ĐGH Innocent IV ban hành ngày 9 tháng 8 năm 1253. Khi đón nhận sắc lệnh này, Clara đã hôn kính; và Ngài đã qua đời sau đó 2 ngày, tức ngày 11 tháng 8, sau khi đã nhận được lời phê chuẩn cho một lối sống đặc biệt, lối sống mà Ngài đã ra sức tìm kiếm trong gần 40 năm. Bản luật của Clara là bản luật đầu tiên được phê chuẩn, do một người nữ soạn thảo.

Chỉ sau 2 năm, Clara được chính thức nâng lên hàng hiển thánh. Các quy định đòi hỏi chứng tá của các nhân chứng trong tiến trình phong thánh chính thức của tòa thánh, đã mang lại cho chúng ta một tư liệu vô giá về các ký ức liên quan đến Clara, ngang qua những người đương thời, những người thân và những người đồng hành gần gũi nhất của Ngài. Các tư liệu trong tiến trình phong thánh tiếp tục cung cấp cho chúng ta những cái nhìn rất riêng tư về cuộc đời của người lãnh đạo tôn giáo đáng khen ngợi này.

Từ lúc Clara được phong thánh, các CENK hay các bà thanh bần, thường được biết đến với tên gọi chung là Dòng thánh Clara.

Clara sống lâu hơn Phanxicô khoảng gần 3 thập niên, và Ngài đại diện cho 1 trong những chứng nhân sống động cuối cùng của đời sống gia đình Phan sinh thuở ban đầu; một nhân chứng mà nhiều anh em hướng về để xin lời khuyên bảo và các thông tin. Với cái chết của Clara, mối liên kết trực tiếp của anh em với cội nguồn của họ đã bị suy yếu đi; và chỉ trong một vài năm, những khác biệt nơi họ đạt đến một cao điểm đối đầu dễ bùng nổ. Phanxicô và Clara, các đấng sáng lập gia đình Phan sinh, đã thấy 3 dòng triển nở trong cuộc đời của mình. Các ACESĐĐT, các CENK, và các AEHM giờ đây phải bước theo những vị lãnh đạo mới và những đường hướng mới; điều này đặt ra cho thế hệ mới câu hỏi: ‘Chúng ta phải sống lối sống theo Tin mừng như thế nào đây?’

SỰ PHÁT TRIỂN BAN ĐẦU CỦA BA DÒNG

Trong những năm sau công đồng Latêranô IV, năm 1215, Jacques de Vitry, giám mục Pháp, đã đến viếng thăm vùng Assisi, và đã ghi chú trong các ký sự của ngài về đời sống đáng khâm phục mà Clara, Phanxicô và những Người sống Đời đền tội như sau:

[...] Một số đông người nam và người nữ đã từ bỏ tất cả của cải mình và từ bỏ thế gian vì tình yêu đối với ĐK: ‘AEHM’, ‘CENK’, như họ được gọi như thế. Họ được Đức Giáo hoàng và các Hồng y quý trọng. Tất cả đều được giải thoát khỏi những của cải trần tục và chỉ có một đam mê khiến họ cống hiến mọi năng lực: chớp lấy những linh hồn đang gặp nguy khốn khỏi những hư ảo của trần gian và thuyết phục họ bắt chước gương sáng của mình. Cảm tạ Chúa vì họ đã đạt được những thành công tốt đẹp và đã thực hiện được những chién thắng lẫy lừng. Những ai nghe biết về những người này đều nói với bạn bè của họ rằng: ‘Nào ta hãy tiến bước!’; và nhóm này đi theo nhóm kia. Như là những anh em với nhau, họ sống lối sống của Giáo hội sơ khai, như được viết: ‘Tất cả các tín hữu đều hiệp nhất với nhau, một lòng một ý’. Ban ngày họ đi vào các thành phố và làng mạc, dấn thân làm việc tông đồ; ban đêm họ trở về tu viện hay rút lui vào các nơi thanh vắng để sống đời chiêm niệm. (Các phụ nữ) sống gần các thành phố trong các nhà tế bần hoặc nơi trú ngụ nào đó; họ sống đời sống cộng đoàn bằng lao động tay chân, nhưng không nhận tiền bạc. Lòng tôn kính mà các giáo sĩ và giáo dân tỏ ra đối với họ chỉ là một gánh nặng cho họ; và điều này làm phiền và quấy rầy họ. Mỗi năm một lần, tại một nơi, mà những người thuộc hội dòng này thỏa thuận với nhau, họ tụ họp nhau lại, để chung vui trong Chúa và ăn uống với nhau; những cuộc hội ngộ như thế mang lại lợi ích lớn lao cho họ. Với sự tư vấn của những người chính trực và tốt lành, họ soạn thảo và ban hành những luật lệ thánh thiện và đệ trình ĐGH để xin phê chuẩn; rồi họ lại tản mác suốt cả năm trong các miền Lombardy, Tuscany, Apulia, và Sicily (Các lá thư của Jacques de Vitry, lá thư I, trong Charism 5:5).

Bức tranh về gia đình Phan sinh, được một người đương thời ghi lại, cho thấy cái thuở ban đầu ấy như thế nào. Phanxicô đã bắt đầu cuộc đời Ngài như một người đền tội 10 năm về trước. AEHM chỉ hiện diện mới được 5 năm. Clara và CENK mới hiện diện được 3 hay 4 năm.

Trong những trang sau đây chúng ta sẽ thấy các thành phần khác nhau của gia đình Phan sinh phát triển như thế nào trong những thập niên tiếp sau chuyến viếng thăm tại Assisi của ĐGM Pháp. Khi nối kết với những câu chuyện của Phanxicô và Clara, lịch sử gia đình Phan sinh cho thấy rằng các vị sáng lập không luôn luôn là những người duy nhất hoặc quan trọng nhất gieo ảnh hưởng cho việc định hình phong trào này.

DÒNG CÁC ANH CHỊ EM SỐNG ĐỜI ĐỀN TỘI

Khoảng 5 năm sau chuyến viếng thăm của Jacques de Vitry năm 1216, Dòng Anh chị em Sống đời đền tội (ACESĐĐT) được tổ chức ngày một hoàn hảo hơn. Có lẽ dưới sự hướng dẫn của ĐHY Ugolino, một bản luật chính thức cho những người sống đời đền tội được ban hành năm 1221, được biết đến như là ‘Bản Ghi nhớ Dự phóng đời sống’ (Memoriale propositi), mà bản gốc của nó không đến được với chúng ta ngày nay. ĐGH Honorio III mở rộng tầm ảnh hưởng của mình nhằm bảo vệ các người sống đời đền tội, đã gửi cho ĐGM Rimini một sắc chỉ thúc giục Ngài hãy bảo vệ những người sống đời đền tội trước những nhà chức trách dân sự ép buộc họ phải cầm vũ khí, thề hứa bảo vệ thành phố.

Thời gian 5 năm sau cuộc bầu chọn John Parenti làm Tổng phục vụ năm 1227, đường lối của Ngài đã giúp cho các ACESĐĐT đảm nhận một vai trò tích cực trong việc thăng tiến đời sống và cách tổ chức của dòng này. Rồi trong vòng 1 năm, các ACESĐĐT có được một bản sao của Luật dòng, vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, mang tên là Bản Luật Capestrano, theo tên thành phố lưu giữ nó.

Thời gian 7 năm sau cuộc bầu chọn Elias Bombarone làm Tổng phục vụ năm 1232, Anh bác bỏ yêu sách cho rằng AEHM phải đảm trách việc hướng dẫn các ACESĐĐT.Vấn đề chịu trách nhiệm đối với ACESĐĐT, cũng như vấn đề chịu trách nhiệm đối với các CENK, đã dẫn đến việc thay đổi hầu hết các chức vụ trong lãnh đạo của AEHM, như giáo triều yêu cầu và anh em đã trì hoãn.

Năm 1247, TPV John Parma, nhận sắc chỉ của tòa thánh ra lệnh cho các TPV của Dòng AEHM tại Ý và Sicilia phải thăm viếng thường xuyên các ACESĐĐT. Chẳng bao lâu sau đó, ít là tại miền bắc nước Ý, nhiều luật lệ khác đã được quyết định: John chỉ thị rằng các HĐĐ ACESĐĐT tại Lombardy và Florence phải ở dưới quyền cai quản của giám mục địa phương.

Vị TPV được bầu chọn năm 1257 là Bonaventure Bagnoreggio, phản đối mọi cam kết của AEHM hướng dẫn các ACESĐĐT. Một tài liệu được phổ biến vào thời bấy giờ, mặc dầu có lẽ không phải là của Ngài, nêu ra nhiều lý do cho rằng một sự cam kết như thế thì không phù hợp với lối sống của AEHM.

Một pháp chế mới được triển khai cho các ACESĐĐT. Năm 1284, các mối liên hệ mang tính pháp lý giữa các ACESĐĐT và AEHM được tăng cường. Anh Caro thành Florence, vị kinh lược tông tòa của ACESĐĐT, đã soạn thảo một bản luật cho lối sống của họ. Trong vòng 5 năm, ĐGH Nicholas IV đã sử dụng văn bản này như nền tảng cho sắc chỉ của Ngài (Supra montem-trên núi) để công bố bản luật cho ‘tất cả ACESĐĐT hiện tại cũng như tương lai’. Sắc chỉ này vừa giữ lại hầu hết các yếu tố của cái được gọi là Bản Luật Capestrano, vừa sắp xếp lại các thành phần của nó. Ngài cũng chính thức gọi thánh Phanxicô là vị sáng lập dòng ACESĐĐT, và đã ra lệnh rằng tất cả các Kinh lược và Thanh tra (Visitatores và Informatores; chúng ta có thể gọi là Councillors and Inspectors) phải thuộc dòng AEHM, vì họ phải sống dưới quyền của dòng này. Mặc dầu một số người trong dòng ACESĐĐT phản đối sự thay đổi đó, nhưng quyết định của tòa thánh vẫn có hiệu lực trong 6 thế kỷ, tồn tại cho đến triều đại ĐGH Lêô XIII vào cuối thế kỷ 19. 

DÒNG CÁC CHỊ EM NGHÈO KHÓ

Trong lúc các nhánh của gia đình Phan sinh đang phát triển, ĐHY Ugolinô, vị cố vấn và bảo trợ của gia đình Phan sinh, muốn tổ chức lại các cộng đoàn nữ tu mới tương tự như những cộng đoàn ở San Đamianô. Ugolinô gửi linh mục tuyên úy của Ngài là Ambrose, một tu sĩ dòng Xitô, đến San Đamianô; nơi đây một hình thức tu trì mới và nghiêm nhặt hơn được áp dụng, như đã áp dụng cho các nữ tu Xitô vào thập niên trước đó.

Sắc chỉ của giáo triều năm 1227 đã giao trách nhiệm chăm sóc các CENK cho AEHM. Từng nhóm nhỏ anh em được liên kết với từng tu viện CENK, và những AEHM này được miễn các bổn phận thường ngày cũng như các công tác tông đồ. Cách sắp xếp này về sau bị chỉ trích; và AEHM thuộc mọi thời đại đều tìm cách tránh né trách nhiệm này.

Dòng CENK tiếp tục phát triển vững vàng trong những năm sau khi Phanxicô qua đời, và bắt đầu mở rộng ra khỏi nước Ý. Công chúa Agnes thành Bohemia, khước từ lời cầu hôn của một vương quân, chọn ẳm nhận lối sống của CENK, đã thành lập một cộng đoàn tại Prague. Chị đã trao đổi với Clara về ý định và kế hoạch của mình. Các bức thư Clara gửi cho Agnes, được lưu giữ cho đến ngày hôm nay, cung cấp cho chúng ta một bộ sưu tập tài liệu vô giá về linh đạo và tính cách của vị sáng lập Dòng. Mặc dầu Clara vui mừng về quyết định của Agnes, Clara vẫn trãi qua những khó khăn liên tục về vấn đề bản luật phải giữ tại San Đamianô. Năm 1238, Clara đã cố gắng xin ĐGH Gregory IX phê chuẩn bản luật, nhưng Ngài đã từ chối. Nhưng cũng chính vị giáo hoàng này đã rất ấn tượng trước quyết định Agnes xin gia nhập dòng CENK , Ngài đã viết thư cho chị, và có đề cập đến ‘ba hội dòng’do Phanxicô sáng lập : dòng AEHM, dòng các Chị Em Tu Kín, và dòng các ACESĐĐT. Đây là văn bản đầu tiên chúng ta có, mà đề cập đến ‘ba hội dòng’của Phanxicô.

Crescentius thành Jesi được bầu làm TPV dòng AEHM năm 1243, đã cấm các AEHM đảm nhận trách nhiệm chăm sóc cho các cộng đoàn CENK.

Đức Innocent IV đã không phê chuẩn luật của Clara năm 1243 như Clara đã hy vọng, nhưng Ngài đã thực sự tìm cách tăng cường mối tương quan giữa các CENK và AEHM. Ngài đã ban 2 sắc chỉ, nhấn mạnh rằng các CENK phải hoàn toàn ở dưới sự hướng dẫn và quản lý của các AEHM. Năm 1247, Tổng tu nghị họp tại Lyon, Pháp, và đã bầu chọn John Parma làm TPV; và tại đây phản ứng chống lại việc liên kết trước đó giữa AEHM và CENK đã phải khiến ĐGH xem xét lại quan điểm của mình.

Tuy vậy Đức Innocent IV nhấn mạnh rằng ĐHY bảo trợ không còn được có tiếng nói trong các vấn đề của các nữ tu; vai trò này chỉ được dành riêng cho lãnh đạo AEHM, là người có toàn quyền trên các tu viện nữ; một trách nhiệm mà thường AEHM không muốn nhận.

Vài năm sau đó, giải pháp cho vấn đề của CENK với AEHM trở nên cấp bách. Bất chấp những chỉ dẫn rõ ràng của ĐGH, AEHM chống lại nhiệm vụ chăm sóc các cộng đoàn nữ tu. ĐHY bảo trợ, Raynald Segni, đã dần dần tái xác nhận thẩm quyền của mình và đã viết cho Tổng tu nghị năm 1250 rằng các AEHM không được can thiệp vào các vấn đề của các cộng đoàn nữ tu và chỉ mình Ngài có quyền điều khiển tuyệt đối với các nữ tu viện.

Sau khi bản luật dòng của Clara được phê chuẩn (không lâu trước khi ngài qua đời) năm 1253, bản luật này được một số ít các tu viện ngoài San Đamianô áp dụng. Cho dù theo nhiều bản luật khác nhau, các CENK thuộc về cùng một gia đình, và con số tu sĩ ngày một tăng lên. Vào thời điểm Clara qua đời, số các cộng đoàn CENK rất đông, có hơn 100 cộng đoàn rải rác khắp Âu châu; chỉ tại Ý thôi có 68 cộng đoàn; 21 cộng đoàn tại Tây Ban Nha; 14 cộng đoàn tại Pháp; 8 tại các lãnh thổ nước Đức.

Với tư cách là TPV, Bonaventura quan tâm thúc đẩy sự phát triển dòng CENK, cho phép các AEHM đảm nhận công việc trợ úy tinh thần cho các cộng đoàn mới của Clara. Một cộng đoàn mới của CENK được thành lập ở Longchamp tại Pháp năm 1259, do Isabel nước Pháp, em của vua thánh Luy. Với một bản luật mới (gọi là bản luật Longchamp), Isabel đã cho phép cộng đoàn của mình sở hữu tài sản và nhận các nguồn thu nhập lâu dài, đồng thời khấn giữ lời khấn đặc biệt tu kín; điều này làm cho họ được biết đến như là ‘Chị em hèn mọn tu kín’(Enclosed or Cloistered Lesser Sisters, Sorores minors inclusae). Bản luật của Isabel sau này được các cộng đoàn nữ tu tại Pháp, Anh, Ý áp dụng, và đã làm phát sinh một nhánh mới trong gia đình do Clara sáng lập.

Bản luật của Isabel đã được ĐGH Urban IV chính thức phê chuẩn năm 1263, khi Ngài công bố một luật mới cho CENK nói chung, điều này làm cho họ được chính thức gọi là Dòng thánh Clara. Được đặt nền tảng một phần trên bản luật do Clara viết, pháp chế mới này cho phép các cộng đoàn nữ tu hầu như dựa trên bản luật của ĐGH Innocent IV năm 1247, bản luật mà trong đó các CENK được chính thức nhìn nhận như là tu sĩ Phan sinh hơn là tu sĩ Benêdictine. Theo pháp chế mới này ĐGH Urban đã giải thoát AEHM khỏi trách nhiệm làm trợ úy tinh thần cho các cộng đoàn nữ tu. Gia đình Clara còn phân chia ra hơn nữa : một số theo luật của Clara, một số theo luật của ĐGH Urban, một nhóm thứ ba theo luật của Isabel nước Pháp.

Mặc dầu bị chia làm nhiều nhóm khác nhau tùy theo tuân giữ bản luật nào, CENK vẫn phát triển và lan rộng. Những vị tử đạo đầu tiên của gia đình Clara kết liễu đời mình tại tu viện Tripoli, khi tu viện này bị rơi vào tay vua Sultan Ai Cập năm 1289. Hai năm sau, 7 nữ tu khác của cộng đoàn Tolemaida bị giết hại trong một cuộc xâm lăng của người Hồi giáo tại đó.

Vào cuối thế kỷ này con số các cộng đoàn CENK đã tăng lên rất nhiều: chúng ta biết có khoảng 413 tu viện dưới sự hướng dẫn của AEHM (những cộng đoàn khác dưới sự hướng dẫn của các giám mục). 196 trong số các tu viện này ở Ý; 23 ở Dalmatia và ở Cận đông; 57 ở Tây ban nha và Bồ đào nha; 68 ở Pháp; 46 ở Đức và vùng Slavonia; và 23 ở Anh. Vào năm 1371 con số các tu viện liên kết với AEHM đã lên đến 452, và rất thông thường là những tu viện đông người; toàn bộ có thể lên đến 15.000 CENK , chưa kể nhiều tu sĩ khác thuộc các tu viện dưới quyền kiểm soát của giám mục.

DÒNG ANH EM HÈN MỌN

Ba năm sau chuyến viếng thăm của ĐGM Jacques de Vitry năm 1216, con số các AEHM tăng nhanh, và khu vực hoạt động của họ cũng mở rộng ra. Một Tổng tu nghị được triệu tập, và tại đây AEHM đã quyết định đi đến các nước Hồi giáo. Một nhóm đi đến vương quốc Morocco, trong khi Phanxicô cùng với Illumianô đến với Sultan, vua hồi giáo tại Damietta bên Ai cập. Trong thời gian Phanxicô đi vắng, AEHM được 2 vị phó là Matthew thành Narni và Gregory thành Naples hướng dẫn. Chỉ trong một thời gian ngắn 2 vị phó này đã áp đặt những quy định về ăn chay và các luật lệ giống như trong các cộng đoàn đan tu. Một chương trình xây dựng được bắt đầu, chẳng hạn một nhà trường được xây dựng tại Bologna, một tòa nhà khác tại Portioncula được xây cất với kinh phí của thành phố Assisi. Nhiều dự án mới được thử nghiệm, chẳng hạn anh John Cappella, người đã cố gắng tổ chức một dòng mới cho các người phong cùi mà anh làm việc với họ, nhưng đã không thành công.

Phanxicô không an lòng trước những đổi thay xảy ra trong thời gian Ngài vắng mặt. Ngài cũng lâm bệnh sau thời gian đi Cận đông về; thị lực của ngài sa sút và sức khỏe của Ngài trở nên yếu ớt do chay tịnh kéo dài. Trong 6 năm cuối đời, Phanxicô rời xa cuộc sống của dòng, Ngài từ chức tổng phục vụ. Tiếp nối Ngài là Phêrô Catanê, người bạn đồng hành cũ, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, rồi sau đó là anh Elia Bombaronê. Phanxicô ngày càng rút lui vào các ẩn viện và làm công việc rà soát lại bản luật, trước khi được phê chuẩn lần cuối cùng năm 1223. Vào thời gian Ngài qua đời, năm 1226, những vị lãnh đạo khác đã điều hành HĐĐ.

Sau khi Phanxicô qua đời, Thomas Celano được giao nhiệm vụ viết về cuộc đời của Phanxicô; một công việc mà Celanô đã kịp hoàn thành đúng thời gian Phanxicô được phong thánh năm 1228. Tại tổng tu nghị lễ hiện xuống năm 1227, tỉnh phục vụ Tây ban nha, anh John Parenti được bần chọn làm tổng phục vụ thay anh Elia.

Trong những năm ngay sau Phanxicô qua đời, các AEHM bắt đầu tranh cãi về các vấn đề mà qua đó sẽ dẫn đến sự chia rẽ sâu sắc giữa AEHM. Tổng tu nghị năm 1230 đã phải đối đầu với những căng thẳng nghiêm trọng giữa AEHM liên quan đến bản Luật cũng như cách giải thích bản Luật. Một ủy ban đã được AEHM bầu ra nhằm làm sáng tỏ những điểm còn nghi ngờ trong sắc chỉ Quo Elongati của Đức Gregory IX đối với việc cắt nghĩa các khoản Luật. Anh TPV John Parenti từ chức năm 1232, và tại TTN được triệu tập tại Rieti, anh Elias Bombarone được bầu làm TPV, một chức vụ mà anh đã làm trước đó trong những năm cuối đời của Phanxicô.

Bất bình gia tăng trước cung cách anh Elias thi hành chức vụ trong tư cách là TPV, đã khiến cho một tu sĩ người Anh là Hayno Faversham, phát động một chiến dịch nhằm truất phế anh Elias khỏi chức vụ. Một TTN được triệu tập tại Roma với sự chủ trì của ĐGH Gregory IX. Tại đây, anh Tỉnh phục vụ nước Anh là Albert thành Pisa, được chọn làm TPV. Nhưng chỉ vài tháng sau anh qua đời, và anh Haymo được chọn để thay thế. Vị lãnh đạo đầy nghị lực này đã ban bố bản ‘hiến chương’ đầu tiên; hiến chương này cho thấy sự cảm phục của Haymo đối với phong cách của các tu sĩ dòng Thuyết giáo. Anh cổ võ lìa bỏ những nhà nhỏ ở vùng quê và chuyển đến những ‘tu viện’lớn hơn nơi thành thị. Anh xem trọng vai trò học vấn trong việc huấn luyện các AEHM mới, Anh khuyến khích các hình thức luật pháp và tục lệ điều hòa của đan viện. Việc đi xin của bố thí được nhấn mạnh, với ít quan tâm đến việc làm tay chân, và một xu hướng giáo sĩ hóa rõ rệt phát triển mạnh mẽ.

Những vấn đề như là: nơi chốn xã hội, phong cách giữ lề luật và tục lệ, việc học hành, cung cách giáo sĩ làm ảnh hưởng đến đời sống của AEHM với những chia rẽ đau lòng sẽ đến trong các thế kỷ sau. Mối rạn nứt đã thấy xuất hiện năm 1241, mười lăm năm sau khi Phanxicô qua đời. Một cuộc họp các cố vấn đã được triệu tập, và các ủy ban được thiết lập nơi từng miền (tỉnh dòng) nhằm giải quyết các điểm hoài nghi đối với việc cắt nghĩa bản luật. Vào thời kỳ ấy, các vấn đề được trình bày rõ ràng trong một bản văn mang tên là ‘Expositio quattuor magistrorum’, một bản trình bày hay giải thích về Luật được bốn vị thầy đã được huấn luyện tại trường đại học triển khai.

Anh Haymo thành Faversham qua đời năm 1243, và anh Crescentius thành Jesi kế vị Anh làm tổng phục vụ. Anh Crescentius chỉ thị cho Thomas Celanô viết một hạnh thánh mới về cuộc đời của Phanxicô, dựa trên những tài liệu chưa được tham chiếu trước đó. Kết quả là quyển hạnh ký thứ hai ra đời, lưu giữ những ký ức của các bạn tiên khởi về Phanxicô, và vẫn còn là một tài liệu quan trọng cho chúng ta ngày nay tìm hiểu về Phanxicô.

Năm 1255, khi Clara được tôn vinh với những nghi lễ trọng thể do ĐGH phong thánh, thì điều không mấy tốt xảy ra trong hàng ngủ AEHM. Cái chết của Clara phá đổ mối liên kết bền chặt giữa những người tiên phong và các thành viên mới sau này trong gia đình Phan sinh. Một cuộc xung đột xảy ra không lâu sau cái chết của Clara, và nó cho chúng ta thấy sự bắt đầu của một câu chuyện dài buồn thẳm thù hận trong đại gia đình này. Năm 1257, một tu nghị được triệu tập tại Rome, với mục đích truất phế TPV John Parma, bị coi như thành phần của nhóm Hướng Linh, và bị nghi ngờ có những đồng cảm nguy hại với giáo huấn của Joakim Fiore, một nhà thần bí khải huyền, mà học thuyết của ông hấp dẫn AEHM hướng linh. Được hỏi để đề cử người kế nhiệm, John chỉ định Bonaventura, một thầy dạy thần học tại đại học Paris, 40 tuổi. Với tư cách là TPV của một hội dòng vừa rộng lớn vừa chia rẽ, Bonaventure đã kiên quyết đi theo đường lối ngăn chặn các thế lực cải tổ và chia rẽ vốn đang đe dọa sự hiệp nhất trong dòng.

Sau 50 năm thành lập, cả 3 dòng trong gia đình Phan sinh đã đạt đến một tốc độ phát triển mạnh mẽ. Các ACESĐĐT ,các CENK , các AEHM cùng các vị lãnh đạo của họ đã biến lý tưởng của các vị sáng lập thành một phong trào quốc tế. Các vị sáng lập này đã qua đời, và một thế hệ mới đảm nhận trách nhiệm đưa phong trào hướng về tương lai. Trong những trang kế tiếp chúng ta sẽ xem xét những sức ép đã ảnh hưởng trên sự chia rẽ giữa AEHM, những sức ép đã gây tác động trên tất cả các nhánh của gia đình Phan sinh trong các thế hệ tiếp theo.

👉 (đọc tiếp các chương tiếp theo tại đây)

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.